Ngọc ngồi thả câu như ông Lã Vọng chờ thời. Chiếc xuồng nhỏ bập
bềnh trên mặt nước xanh biếc lao xao những đợt sóng nhẹ nhàng chúi
đầu vào mạn xuồng. Chiếc neo được rèn từ một cọc sắt ấp chiến lược
cũ giữ cho xuồng hầu như đứng bất động giữa trời nước bao la. Khi
hạ xuống nước chiếc xuồng trông có vẻ không đến nỗi nào nhưng giờ
neo giữa đầm nước mênh mông trông nó giống như món đồ chơi xinh
xắn của bé Lam. Khuôn mặt mũm mĩm của đứa con trai duy nhất vừa
bập bẹ biết nói bất chợt hiện ra làm anh ngơ ngẩn thất thần. Anh
ngước nhìn vào phía đất liền như muốn tìm kiếm lại những bóng hình
thân thuộc. Mắt anh bị chặn lại nơi sườn đồi thoai thoải lổn nhổn
những phiến đá cằn cỗi chen giữa những bụi cây xác xơ kiên nhẫn
phơi mình giữa nắng sớm. Bên kia đồi là xóm làng của anh, nơi anh
đã mở mắt chào đời và quấn quít yêu thương suốt hai mươi lăm năm
dòng dã.
Sáng nay anh đã hấp tấp ra khỏi nhà không dám nhìn mẹ già và vợ
con trước giờ lên đường. Những bóng hình thân quen đó thản nhiên
đến tội nghiệp. Đâu có ai đọc được quyết định sắt đá trong đầu anh.
Cha anh và đứa em gái phụ anh gánh xuồng ra biển cũng đâu có ngờ
họ vừa đưa tiễn anh lao vào một cuộc phiêu lưu nặng chĩu phần chết.
Gạt mái chèo cho xuồng ra khỏi bờ một quãng anh quay lại thấy hai
người đang leo ngược lên đồi trở về. Hai cái bóng xiêu vẹo in rõ
trên nền trời như những hình nhân cắt bằng bìa trên đèn kéo quân.
Anh chẳng rõ lúc đó đầu óc anh đã nghĩ gì. Mắt anh chăm chăm trông
chừng hai chiếc bóng khuất qua bên kia sườn đồi để quay xuồng ngược
trở lại bờ. Đôi tay anh thoăn thoắt theo nhịp chèo mỗi lúc mỗi nhanh
thêm. Xuồng vừa chạm vào đất là anh vội nhảy lên chạy tới bên lùm
dương xách túi lương thực mà anh đã dấu từ hai ngày trước. Mắt trước
mắt sau lấm lét như một tên trộm chỉ sợ có người bắt gặp, anh quăng
người vội chạy trở lại xuồng và mải miết chèo.
Phải mất hai tiếng đồng hồ chèo không nghỉ tay anh mới tới chỗ
đầm này neo xuồng giả dạng một người đi câu. Ông Lã Vọng bất đắc
dĩ đang thực sự cho thời cơ thuận tiện. Ngọc cẩn thận kéo chiếc
nón lá sụp xuống che mặt. Mấy con cá nhỏ vừa câu được nhảy lanh
chanh trong lòng xuồng chật hẹp chạm vào chân anh nghe lành lạnh
nhớt nhát. Nhìn đôi bàn chân đen đủi mốc thếch anh nghĩ tới những
ngày leo núi đẵn cây đóng xuồng. Cũng mất cả năm chứ ít ỏi gì. Anh
phao tin khắp làng là anh đóng xuồng để đi câu và chở khoai. Nhà
anh có một khoảnh đất trồng khoai trên một hòn đảo cách nhà bằng
một vạt nước lớn. Vậy thì ai mà chẳng tin. Còn đi câu kiếm thêm
ít cá cho những bữa ăn đạm bạc là chuyện thường tình như mọi người.
Vả lại với chiếc xuồng dài bốn thước ngang vỏn vẹn có một thước
thì cũng chỉ quẩn quanh gần bờ chứ đi đâu xa được. Huống chi là
toan tính vượt biên.
Nhưng trong đầu Ngọc là cả một kế hoạch lớn lao. Anh nhất định
phải ra đi.Ở làm sao được với những áp bức, bóc lột, chèn ép của
bọn cán bộ xã và đám công an hống hách, ngu muội lúc nào cũng rình
rập để bắt bớ, hạch xách hoặc kiếm chút ngoại bổng của đám dân ngày
càng xác xơ tàn tạ. Đầu óc Ngọc lúc nào cũng chồng chất hận thù
trong khi môi miệng vẫn phải vâng vâng dạ dạ ngoan ngoãn như một
em học sinh tiểu học. Làm sao mà đi, câu hỏi quay cuồng rối rít
chẳng bao giờ bắt được câu trả lời. Mỗi mạng trên tàu là cả núi
tiền. Đào đâu ra? Cuối cùng anh thấy chỉ còn cách tự đóng xuồng
ra đi một mình. Coi như thí cái mạng sống chẳng ra sống, chết chẳng
ra chết. Mà chết có khi còn dễ chịu hơn sống. Chết cho cuộc thử
thách một đời thì còn có gì để mà hối tiếc. Nhưng sự liều lĩnh của
Ngọc là một kiều lĩnh có tính toán. Anh khéo léo gợi chuyện với
những người nhiều kinh nghiệm đi biển để lường trước những hiểm
nguy, giảm thiểu những bất trắc và tránh những ngỡ ngàng với sóng
gió giữa trời nước mênh mông.
Anh lựa những cây thật chắc xẻ thành ván dầy hai phân, những cây
đà dầy năm phân, đóng kỹ lưỡng và trét kín tỉ mỉ từng chút một thành
một chiếc xuồng chắc chắn bền bỉ. Hai bên xuồng anh dùng móp làm
hai cái phao dài gắn ở mỗi bên để xuồng khỏi lắc lư. Phía đằng lái
có một bánh lái chính, một cây chèo cột chặt với một chiếc cọc phía
bên phải xuồng, giữa xuồng là một cột buồm chắc chắn. Cánh buồm
cắt từ một góc chiếc dù màu xanh của binh chủng Nhảy Dù cũ. Anh
cẩn thận dấu cột buồm vào một chỗ kín đáo và chỉ gắn trước khi đi.
Phía trước xuồng anh còn làm thêm hai bánh lái phụ cho chắc ăn.
Ngọc sửa lại thế ngồi. Miếng nệm nhỏ lót trên thanh ngang xuồng
làm anh khó xoay trở. Đầu cành câu bỗng nằng nặng. Anh giật lên.
Một chú cá loằng ngoằng trên mặt nước. Lớp vẩy nhỏ lấp lánh như
sao sa. Cá hôm nay có vẻ chịu ăn mồi. Anh câu chơi chơi để cho lúc
thuận tiện phóng ra biển mà cũng được tới khoảng năm chục con. Anh
đập đầu cá phơi trên mép thuyền để dành làm lương thực phòng khi
thiếu hụt. Nghĩ tới lương thực anh giật mình lo lắng. Hồi nãy hấp
tấp chui vào lùm dương lấy đồ anh đã quên không đào hộp khoai lang
khô chôn dấu dưới đất. Anh đập tay vào đầu tức giận. Sao lại vô
ý đến như vậy không biết nữa. Hộp khoai là món lương thực dự trữ
chính mới chết chứ! Anh ngồi thừ người tính toán. Từ Đà Nẵng tới
đảo Hải Nam, nơi anh nhắm tới, phải mất khoảng mươi ngày. Trong
xuồng chỉ có ba gói bánh khảo mỗi gói có sáu miếng bánh nhỏ, ba
gói bánh trung thu nhỏ mỗi gói bốn cái. Sáu gói bánh mỗi gói chắc
chỉ đủ ăn một bữa lót lòng. Thêm được một nắm cơm với vài cục đường
trù tính ăn ngay ngày hôm nay. Nước chỉ có năm lít đựng trong chiếc
can nhựa nhỏ. Sao mà đủ được? Anh nhìn đám cá nằm phơi bụng quanh
mạn xuồng. Đúng là của trời cho. Mấy chục con cá này cũng cầm cự
được thêm ít ngày. Anh chặc lưỡi. Mạng sống còn chưa tính, tính
chi mấy chuyện vụn vặt.
Mặt trời đã trèo lên tới đỉnh. Chiếc bóng của Ngọc đội nón lá
ngồi trên xuồng lùn tịt nằm gọn gàng thành một đốm tròn vo. Giờ
này là giờ vắng vẻ. Ngọc nhìn quanh. Không có gì khả nghi. Tiếng
mìn nổ phá núi của toán công nhân lấy đá như những phát súng lệnh.
Anh bương bả chèo ra hướng biển. Người anh căng cứng. Mồ hôi ứa
ra nhớp nháp. Hai mắt đăm đăm nhìn mũi xuồng nhấp nhô theo từng
nhịp chèo. Đầu óc anh trống rỗng lạ lùng. Như một miếng kính trong
suốt trắng xóa. Từng sợi gân, từng mạch máu bóp bóp vào chiếc sọ
lạnh tanh làm anh nhức nhối quờ quạng. Hai tay anh nhịp nhàng lên
xuống hòa điệu với thân hình uốn éo hoạt động như một bộ máy còn
nguyên vẻ háo hức miệt mài.
Từng giờ từng giờ trôi qua. Mái chèo vẫn nhịp nhàng rẽ nước. Con
xuồng nhỏ hối hả trốn chạy khỏi đất liền. Ngọc cho mũi thuyền chạy
thẳng băng xa bờ. Nước đậm màu dần. Màu xanh nhạt đổi thành màu
xanh đậm, trở qua màu tím đục rồi đen kịt. Ngọc biết là anh đã bỏ
lại khá xa làng quê anh. Anh bất chợt quay đầu lại. Bờ biển ở phía
sau đã mang hình dáng cong cong. Bài địa lý những năm tiểu học chập
chờn trước mắt anh. Cái dáng hình chữ S nhọc nhằn mà anh đang vội
vã rời xa làm ruột gan anh bầm tím. Ngày hôm nay là ngày anh phải
nhớ. Ngày 18 tháng 6 năm 1986. Nếu sống anh sẽ ghi lòng tạc dạ.
Nếu chết chắc chắn gia đình anh sẽ chọn hôm nay làm ngày giỗ anh.
Mắt anh nặng buồn. Lòng anh chĩu xuống. Con xuồng chao nghiêng làm
anh giật mình sực tỉnh. Phải
sống cái đã! Mắt anh muốn dõi về phía trước nhưng đầu anh cứ từ
từ quay trở lại. Như có một sợi dây vô hình kéo đầu của một con
rối. Mặt trời đã khuất sau dãy núi mờ mờ phía xa. Những ánh đèn
nhỏ như những con đom đóm bò lên bò xuống trên hai con dốc. Anh
biết đó là những chiếc xe đang chạy trên đèo Cả và đèo Hải Vân.
Quê hương đang co mình thu nhỏ lại trước đôi mắt thẫn thờ của anh.
Tiếng phì phò ầm ĩ phía trước mũi xuồng kéo anh trở về thực tại.
Tầm mắt anh chạm vào những khối lổn nhổn đen xì đang vùn vụt phóng
tới xuồng. Anh hốt hoảng ngồi trơ mắt nhìn. Toàn thân anh bất động
không biết phải phản ứng ra sao. Từng khối đen bóng vẫn phăng phăng
rẽ nước tiến tới. Anh chợt nhớ tới câu chuyện kể lại kinh nghiệm
của những người đi biển về hiện tượng này. Cá heo! Một đàn cá heo
khoảng mưoi lăm con đang hướng tới anh. Cá heo là một loại cá hiền.
Anh thầm mong những lời kể anh đã được nghe không sai sự thực. Cằm
anh bạnh ra cố chống đỡ cho thân mình khỏi run bần bật. Dù hiền
cách nào đi chăng nữa thì đám cá khổng lồ này chỉ cần vẫy nhẹ đuôi
một cái là xuồng anh tan tành như không. Tiếng phì phò càng lúc
càng mạnh làm đầu óc anh căng thẳng nhức nhối. Anh muốn nhắm mắt
lại phó mặc cho số phận đẩy đưa. Những phiến lưng cá lớn lao bóng
nhãy nhảy múa trước mắt anh. Khoảng cách mỗi lúc mỗi thu ngắn lại.
Chỉ còn khoảng trăm thước nữa là xuồng anh chắc chắn sẽ quay cuồng
như một chiếc lá tội nghiệp trước khi hất anh xuống biển. Bỗng như
được điều khiển bởi một sức mạnh vô hình, đoàn cá dắt díu nhau quẹo
qua bên phải xuồng kéo nhau đi về phía nam. Ngọc thở phào nhẹ nhõm.
Ngàn cân lo sợ phút chốc như được đổ ào xuống mặt biển. Người anh
rũ ra như một tàu chuối héo uá. Nỗi vui mừng quá lớn lao làm anh
ngơ ngác mềm nhũn.
Trời nước đang dần dần đen kịt lại. Bóng đêm như một chiếc bao
bố chụp kín Ngọc. Anh rùng mình nhớ lại cảm giác ứ nghẹt hồi anh
lên sáu khi đang ngồi chơi trong góc sân vào lúc trời nhá nhem tối
bị bà chị tinh nghịch úp chụp chiếc bao gạo cũ lên người. Mùi ẩm
mốc rít kịt, những hạt bụi ồ ạt chui vào mũi và nỗi sợ hãi ùa tới
như một bàn tay thô lỗ bóp nghẹt ngực anh làm anh bàng hoàng tưởng
mình đang cô đơn trong cỗ hậu sự của bà ngoại nằm câm nín hãi hùng
ở một góc tối trong nhà. Bây giờ mình anh cô đơn giữa biển cả tối
tăm, cảm giác của thời thơ ấu đã bùng dậy làm anh hoảng hốt. Anh
thấy như ngộp thở giữa bao la trùng điệp của biển. Anh thu người
lại trong nỗi cô quạnh tuyệt đối. Mình anh nhỏ bé chìm ngập trong
cái vô cùng của đại dương. Bốn bề như những cánh tay rét mướt dồn
ép anh vào nỗi sợ hãi của con người nguyên thủy co quắp giữa vũ
trụ mênh mông. Đầu óc anh thiếp đi bàng bạc nỗi trống vắng tột cùng.
Không gian như trốn chạy, thời gian nhưmất hút, chỉ có cái hỗn mang
quay cuồng quanh một sinh vật trơ khấc trần trụi trong tăm tối.
Anh thèm đến tận ruột gan một hơi thở, một tiếng nói, một bóng hình
đồng loại.
Gió tây nam nổi dậy kéo Ngọc bừng tỉnh. Anh vội vã giương buồm
lên. Cánh buồm tội nghiệp méo mó mau chóng ôm đầy một bụng gió.
Mép buồm phần phật như những bàn tay ấm áp đang ra sức vươn mình
tới nắm bắt lấy Ngọc. Những vì sao chen chúc nhau như những mắt
đom đóm vướng vít chao đảo trong khu vườn sau nhà những đêm hè ngồi
đón chút gió hiếm hoi. Ngọc vội vàng kiếm mấy vì sao quen thuộc
để hướng mũi xuồng về phía đông bắc. Trong tay không có hải bàn,
anh quờ quạng trên biển ban ngày bằng hướng mặt trời, ban đêm bằng
những vì sao sáng. Con xuồng ngoan ngoãn lướt nhẹ trên mặt nước
đen như mực tàu.
Nước rỉ vào xuồng xâm xấp tới mắt cá chân. Ngọc vội vàng lấy chiếc
ca tát nước. Anh đang loay hoay xoay trở thì chiếc xuồng bỗng nghiêng
sang bên trái. Cánh buồm sà xuống mặt nước. Ngọc hốt hoảng đứng
dạy cố nhấc cánh buồm lên. Vừa lúc đó một cơn gió mạnh thổi tới
làm xuồng lật sấp lại. Người anh bừng dạy nỗi sợ hãi thiết thân.
Lóp ngóp bám vào thuyền, anh nghe nỗi thất vọng vây chụp kinh hãi.
Thế là tiêu tan cuộc vượt biển. Sức đâu mà chống chỏi với nộ khí
của biển cả. Thân xác này sẽ làm mồi cho cá dữ sao? May mắn lắm
trôi dạt được vào bờ thì cũng tù tội suốt đời. Bước đường cùng mở
ra cho anh một nghị lực phi thường. Anh điên cuồng vật lộn với chiếc
xuồng để tìm sự sống. Nhờ có phao bằng móp gắn chặt hai bên nên
xuồng chỉ chìm lưng chừng mặt nước. Loay hoay quanh chiếc xuồng
một hồi, anh tìm cách tựa vào một bên xuồng dùng sức mạnh cố lật
ngửa xuồng lên. Một lần, hai lần, anh kiên nhẫn tung hết cả hơi
thở cho sự sống còn. Cuối cùng xuồng bung lên nhấc bổng niềm hy
vọng của Ngọc. Anh nhanh nhẹn tung người lên xuồng dùng nón tát
nước ra. Đôi cánh tay anh hối hả đẩy từng lượng nước tai quái ra
khỏi xuồng. Chiếc xuồng từ từ nổi lên mang cuộc sống khoan thai
trở lại. Cuộc sống không trở lại xuông mà mang theo những rắc rối
của nó. Ngọc ngồi kiểm lại chút gia tài còm cõi mang theo. Những
thứ anh cột chặt vào xuồng vẫn còn đó. Sáu gói bánh thì ba gói bánh
trung thu bị nước tham ướt sũng, chỉ còn ba gói bánh khảo tạm dùng
được. Mấy con cá câu được chỉ còn vài con mắc trong rổ. Chiếc cần
câu và con dao vẫn còn dính vào thuyền. Bình nước vẫn còn làm Ngọc
yên tâm phần nào. Duy có chiếc hộp nhựa đựng diêm quẹt và thuốc
say sóng đã đi vào lòng biển. Anh tiếc ngẩn ngơ chiếc hộp quí giá
này. Diêm quẹt trù để dùng nếu xuồng bị đánh dạt vào một hoang đảo
nào đó. Lửa nấu nướng, lửa sưởi ấm, lửa mang lại sinh khí để tiếp
tục cuộc vượt biển. Vậy mà lửa đã tắt ngấm dưới ngọn gió ác độc.
Thuốc say sóng là thứ anh không thể thiếu. Sóng gió biển cả anh
không dễ gì chịu đựng nổi. Trưa nay anh đã uống một viên và dự tính
cứ cách vài giờ phải dùng thuốc một lần. Những viên thuốc quí giá
mà anh đã khổ công thu thập trong một khoảng thời gian dài nay đã
vượt khỏi tay anh. Anh sững sờ không biết sẽ xoay sở cách nào khi
bị thần sóng vật tơi tả. Trong trăm điều trù tính những bất ngờ
của cuộc hải hành anh không dành chỗ cho sự bất ngờ tệ hại này.
Nhìn cánh buồm no gió cắt đi một mảnh trời trước mặt, Ngọc chưa
bao giờ thấy đầu óc vần vũ như vậy. Nếu cứ lý luận, cân nhắc, nghĩ
suy thì chắc anh phải quay đầu về. Nếu về thì... Ngọc không dám
nghĩ tiếp. Anh lắc đầu cố xua đuổi hình ảnh hừng hực rực lửa của
niềm bất hạnh tận cùng không kham nổi. Chỉ có một nước đi. Quyết
định một đời mà nghe nhẹ tênh như đi một nước bài trong canh bạc
còm.
Gió tây nam vẫn tiếp tục thổi đưa xuồng lướt nhẹ trên mặt nước
lăn tăn những lượn sóng nhỏ. Ngọc ngắm hướng sao, cài chặt bánh
lái và sửa soạn ngủ. Cơn buồn ngủ vội vàng kéo tới làm Ngọc mệt
rã rời. Viên thuốc say sóng uống hồi sáng như đã hết công hiệu.
Vừa đặt lưng xuống mi mắt đã nặng chĩu như hai miếng thép nguội.
Chợp mắt được một chút, anh tỉnh dậy thấy lưng áo ướt sũng. Nước
ngập khá sâu trong lòng xuồng. Lại phải dậy hì hục tát nước ra.
Xong anh lấy cuộn giây neo buộc từ đằng mũi đến đằng lái nhiều vòng
thật chặt. Anh nằm trên giây cho khô ráo. Hai tay gồng sát mạn thuyền,
ngón chân kẹp lấy mép thuyền cho khỏi rớt ra ngoài. Anh lấy chiếc
áo mưa đắp lên người. Cứ ngủ chừng một tiếng đồng hồ anh phải lò
mò dậy tát nước. Giấc ngủ bị cắt từng chặp cũng mang lại cho anh
cảm giác khỏe khoắn trong người.
Khoảng gần sáng, Ngọc trông thấy một chiếc tàu bỏ neo phía trước
mặt. Nhìn cánh buồm màu xanh, anh biết là tàu quốc doanh miền bắc.
Anh định lách ra nhưng không kịp. Mặt trăng tròn vành vạnh soi sáng
cảnh vật. Anh đánh liều cho xuồng lách phía sau lái tàu khoảng mưoi
lăm thước. Nếu người trên tàu phát hiện được xuồng của anh chắc
chắn họ sẽ nổ súng. Anh nín thở khi bóng con tàu đè xuống chiếc
xuồng đang rón rén bò từng chút, từng chút nghe ngóng. Qua khỏi
con tàu một khoảng cách xa anh mới thở phào nhẹ nhõm.
Mặt trời từ từ ló lên từ phía chân trời như có người ghé vai đẩy
cho nhúc nhích từng chút. Chưa bao giờ Ngọc thấy cảnh trời nước
bao la đến thế. Một ngày mới xuất hiện rực rỡ như muốn ôm chầm lấy
chiếc xuồng nhỏ bé. Thiên nhiên như một người khổng lồ đang cố đè
xuống nuốt chửng tấm hình hài tội nghiệp vất vưởng trên mặt nước
xanh biếc. Anh nhìn vào phía bờ. Vẫn chỉ một màu xanh biếc của biển
cả. Bụng Ngọc râm ran khó chịu chẳng biết vì đói hay vì đã bị nhấc
lìa ra khỏi bến bờ quê hương. Anh mở gói bánh ăn. Gói bánh trung
thu bị ướt đêm qua giờ đã nhày nhụa nát bét. Anh trải bánh phơi
bên mạn thuyền. Ngọc lấy một chiếc bánh khảo bỏ vào miệng. Miếng
bánh nhỏ nhoi mắc nghẽn trong cổ họng khô rang. Anh với bình nước
uống. Hớp được một ngụm anh phải bỏ bình nước ra ngay và vội vàng
đậy nắp bình lại.
Gió ngưng thổi. Cánh buồm không đẩy được con thuyền đi, Ngọc phải
dùng tay chèo. Trời nắng chang chang như lửa đổ từ bốn phương tám
hướng xuống. Mắt Ngọc hoa lên những đốm sáng tinh quái nhảy múa.
Anh kéo tay áo xuống, đội chiếc nón lá trên đầu che nắng. Người
anh hừng hực rát rạt như đứng cạnh một đám cháy khổng lồ.
Nắng làm gói bánh trung thu anh phơi cứng ngắc lại. Anh bốc một
miếng bỏ vô miệng ăn thử. Miếng bánh như một cục đá có mùi khăm
khẳm nặng nề. Không thể ăn được. Anh nhìn gói bánh tiếc ngẩn ngơ.
Giữ lại cũng không ăn được nhưng vứt đi thì không đành lòng. Gói
bánh như thách thức làm anh nhức nhối trong đầu. Anh chặc lưỡi chụp
lấy vứt mạnh xuống biển. Đầu anh như theo miếng bánh hun hút vào
nỗi lo âu thiết thân: số lương thực ít ỏi bị khuyết đi một mảnh
lớn, làm sao qua được nỗi đoạn trường chờ đón trước mặt. Một chiếc
bánh nhỏ, một hớp nước cho mỗi bữa ăn không đủ giữ cho tay anh nhanh
nhẹn chèo chống. Mái chèo càng lúc càng thêm nặng nề. Những cơn
say sóng làm anh tệ mạt thêm. Có lúc anh phải oằn người ra khỏi
thuyền ói mửa. Chút bánh ít ỏi trong dạ dày bị tống ra cùng mật
xanh mật vàng làm anh mệt nhoài khốn khổ.
Ngọc cố gắng dùng sức mạnh tinh thần giữ vững niềm tin vượt thoát.
Không thể đầu hàng sớm thế này được. Chưa qua ngày thứ hai mà. Anh
đăm đăm nhìn mặt biển thách thức. Ta phải thắng mi. Chẳng còn cách
nào khác. Anh ngẩng đầu nhìn lên trời. Ánh sáng gay gắt làm mắt
anh tối lại như một người bị quáng gà. Thiêu đốt nữa đi! Mi chẳng
bao giờ đốt được ý chí của ta. Anh lẩm bẩm trong miệng như một tên
điên lạc lõng giữa biển cả. Không thể bỏ cuộc. Không thể chết được.
Hai cánh tay anh như được truyền thêm sinh lực. Mái chèo đã vững
vàng gạt nước một cách chững chạc hơn. Anh như người mộng du cắm
cúi đi về phía trước. Phía của sự sống.
Mặt trời chịu thua đủng đỉnh đi xuống. Cái nắng cháy da nhòa đi
như thẹn thùng khỏa lấp nỗi ngượng ngùng của kẻ bại trận. Gió tây
nam trở lại khiến Ngọc cảm thấy lâng lâng niềm kiêu hãnh. Anh vội
giương buồm lên đón gió, cài bánh lái và lăn ra ngủ. Giấc ngủ ập
xuống dễ dàng. Ngọc đã quá mệt nhọc sau một ngày cục nhọc với mái
chèo.
Nắng như một dấu ấn hãi hùng cho ngày thứ ba của cuộc hành trình.
Nước trong người như rủ nhau thoát ra ngoài hết. Chưa bao giờ trong
đời Ngọc thấy khát nước như vậy. Miệng khô khốc đắng ngắt, cổ họng
rít kìn kịt, cả người bần thần khó chịu chỉ muốn cấu xé lôi từng
miếng thịt trong người ra cho dễ chịu. Khát cháy ruột cháy gan nhưng
không dám uống nước nhiều. Thỉnh thoảng nhắp nhắp một hớp nước như
tráng một nước men trong miệng rồi phải lấy hết can đảm đậy bình
nước lại. Ngấn nước trong chiếc bình nhựa hững hờ tụt xuống làm
Ngọc cảm thay điên lên vì lo lắng. Anh nhắm mắt cầu trời mưa xuống,
anh sẽ chìm ngập trong giòng nước ân sủng đổ xuống người anh. Nước.
Nước. Niềm hạnh phúc tuyệt diệu đó trốn lánh nơi nào? Anh hé mắt
nhìn lên. Chỉ thấy nắng quàng xiên từ khắp phía đổ dồn vào mắt anh.
Anh nhìn xuống biển. Nước mênh mông không bờ không bến nhưng chẳng
có một giọt nước nào uống được. Những khối nước nhởn nhơ xô giạt
quanh anh như chế nhạo. Anh giận dữ đập tay xuống nước. Những hạt
nước bắn lên vây kín anh. Một vài giọt chui vào miệng anh mặn chát.
Anh phun ra phì phì tức tối.
Ngọc lấy chiếc lon múc nước lên dội xối xả vào người. Bộ quần
áo ướt sũng bám sát người đẩy lui được cái cảm giác khô khốc khó
chịu. Cái nắng tai quái vẫn xúm vào hành hạ anh. Chỉ một lát cơn
khát lại lò mò trở lại. Bộ quần áo trên người anh khô lại mau chóng.
Tay anh lại quờ quạng lấy lon xối nước. Ướt rồi lại khô. Khô rồi
lại ướt. Riết rồi anh có cảm tưởng đang bận một bộ áo giáp ra trận
của người xưa. Cứng còng còng như vỏ ốc.
Ngọc ngồi thu mình trên xuồng trong nỗi cô đơn tột cùng. Một mình
anh trôi dạt giữa mênh mông trời biển. Anh thèm bóng hình đồng loại.
Kiếm đâu ra một con người bướng bỉnh thách đố với cuộc sống như
anh. Chỉ có mấy con hải âu trắng đục lạng quanh thuyền làm quen
với một sinh vật lạ lùng ngồi thu lu như một con ốc buồn phiền.
Tiếng kêu của hải âu nghe rời rạc thiết tha. Chúng bay quanh một
hồi rồi đáp xuống đậu trên bãi rong biển đang lững lờ trôi. Những
chiếc mỏ nhọn hoắt nhẫn nại mổ xuống đám rong kiếm mồi. Lâu lâu
chúng lại ngẩng lên nhìn Ngọc bằng những đôi mắt tròn vo ngơ ngác.
Ngọc thấy thèm cái thanh thản của những con vật có cánh dễ thương
này. Chẳng cứ hải âu, những con ba ba biển lớn như một chiếc chiếu
cũng có cái thanh thản không kém. Chúng lật ngửa, nằm sấp như rỡn
với những đợt sóng đang tung tăng chạy nhảy chung quanh. Rỡn chán,
những khối đen khổng lồ này lại ngóc đầu phì hơi đùa nghịch với
những đám rong biển. Ngọc đang cố quên đi cơn khát, trải hồn theo
cái vô tư của đám sinh vật hồn nhiên này thì mắt anh chạm phải một
cặp đẻn to bằng bắp tay đang quần nhau nằm trên mặt nước. Anh thất
thần nhìn chung quanh và thấy thêm nhiều cặp khác đang ngụp lặn
dưới nước hoặc nằm giữa đám rong biển. Những thân hình vằn ô màu
trắng và nâu giống như cá chình có chiếc đuôi lép làm anh hoảng
hốt. Chúng có thể cắn chết người như không. Ngọc vội tránh xa những
đám rong e sợ những con vật độc địa này có thể leo theo mái chèo
bò lên xuồng.
Ngọc đưa mắt lục lọi quanh xuồng xem có chú đẻn du kích nào len
lỏi bên anh không. Chết vì may tên ác ôn này thì thật lảng xẹt.
Anh nhấc mớ đồ ít ỏi trong thuyền lên để nhìn cho rõ. Không có bóng
dáng hãi hùng của rắn biển. Anh chưa kịp yên tâm đã nghe thấy những
tiếng phì phò đang ầm ầm kéo về phía anh. Anh nhìn quanh thuyền.
Cá heo lềnh khênh nhấp nhô cùng khắp. Chiếc xuồng nhỏ bé nằm giữa
một đàn cá heo phô những chiếc lưng đen xì như lưng trâu đang ngụp
lặn như muốn xô đắm thuyền. Ngọc cuống cuồng không biết phản ứng
ra sao. Anh vội nằm xuống với hy vọng giữ con thuyền thăng bằng
khỏi lật. Đàn cá vô tư nhởn nhơ coi bộ không biết có một con tim
đang ngất ngư muốn ngừng đập. Đầu Ngọc quay quanh thuyền như một
thủ môn đang rình rập một đường banh ác hiểm xăm xăm muốn lọt lưới.
Chiếc thuyền mỏng manh bập bềnh cơ hồ sẵn sàng chìm lỉm bất cứ lúc
nào. Nhưng bỗng nhiên những chú cá to như những ông hộ pháp rủ nhau
bơi đi nhanh nhẹn không kém lúc tới. Tiếng phì phò xa dần làm Ngọc
mừng muốn chảy nước mắt. Anh ngẩng đầu lên thầm cám ơn trời xanh.
Mắt anh đụng đám mây chiều lững thững trôi qua. Mây còn có chốn
về nhưng anh vẫn một mình trôi giạt giữa
biển khơi. Anh tủi thân muốn khóc.
Ba giờ sáng ngày 22 tháng 6, vừa trở dạy tát nước, Ngọc trông
thấy ánh đèn từ phía xa. Anh lặng người chăm chú quan sát. Vệt sáng
thôi miên đôi mắt anh. Như ánh mắt nai uống ánh sáng trong đêm khuya.
Ánh sáng nằm rõ ràng trên biển như ánh sáng cứu rỗi. Anh mường tượng
trong đầu một chiếc tàu đang đứng cho anh. Tung hê tất cả lo lắng,
anh xấn xổ cho xuồng đi về phía của sự sống. Thuyền lướt đã nhanh
nhưng tâm trí anh còn nhanh hơn nữa. Anh đã nhìn thay bờ bến sống
còn. Nỗi tở mở trong anh đẩy mái chèo cuống quít dạt nước. Từng
giờ, từng giờ trôi qua mà vùng ánh sáng không thấy gần thêm được
chút nào. Anh hoảng hốt. Có thể nào vùng ánh sáng chỉ là ảo ảnh
của đôi mắt thèm khát bến bờ của anh không? Anh đưa tay dụi mắt,
lắc lắc cái đầu nặng chĩu hoài
nghi.Vùng ánh sáng vẫn còn đó. Anh không mơ. Mái chèo tiếp tục nhảy
nhót. Mặt trời đã lên. Vầng thái dương soi sáng cho anh thấy một
vật đen đứng yên trên mặt biển mênh mông. Chắc là một chiếc tàu
lớn đang đứng đợi anh. Người anh như được tiếp cả khối sức mạnh
sung mãn. Phải vươn tới trước khi chiếc tàu đổi ý chạy đi. Lại từng
giờ nữa trôi qua. Chiếc tàu vẫn còn đó nhưng trí óc anh đã được
ánh sáng mặt trời đánh thức dậy. Thuyền của anh như chiếc lá trên
biển làm sao chiếc tàu lớn nhìn thấy đứng chờ. Sự tỉnh táo của trí
óc làm anh vừa mắc cở vừa tiếc nuối. Anh chẳng còn thời giờ suy
nghĩ vẩn vơ. Phải bắt lấy chiếc tàu. Đôi tay anh hăng hái cố thu
ngắn khoảng cách. Mặt trời đã lên gần đỉnh đầu. Mắt anh nhìn thấy
những chiếc chân sắt cắm xuống mặt nước nâng đỡ một khối đen càng
lúc càng rõ dần. Anh đoán đây là một dàn khoan dầu. Xuồng tới gần
hơn nữa. Anh thấy rõ ràng hơn. Sau dàn khoan là hai chiếc tàu mang
cờ Trung Quốc với hàng số 205 và 207. Thành dàn khoan có vẽ chữ
ANHAI No 2. Ngọc mừng rỡ khi thấy những bóng người nhỏ xíu như những
con búp bê lui tới trên dàn khoan. Anh xé ống quần đen đang mặc
cắt thành chữ S.O.S. đính vào cánh buồm rồi giương buồm lên chèo
tới. Những người trên dàn khoan đã nhìn thấy thuyền của anh. Họ
đứng sau thành dàn chờ. Anh trông thấy những chiếc đầu tóc đen chen
lẫn với những chiếc đầu tóc vàng. Ngọc nhìn thay những chữ NO SMOKING,
EXIT chen lẫn những chữ Hán trên dàn. Khi thuyền anh còn cách dàn
khoảng trăm thước, họ ra lệnh ngừng lại. Anh giơ bình nước lên cao
làm dấu xin nước. Thủy thủ trên một chiếc tàu vẫy tay gọi tới. Họ
thả xuống cho anh hai can nước ngọt. Xuồng anh chỉ còn nửa lít nước
và một gói bánh nên mắt anh hoa lên với số nước dư dả. Anh nhấc
một can nước đổ ào ào lên mặt và miệng.Cơ thể anh như hồi tỉnh với
làn nước ngọt mát dịu. Anh nhìn lên đám đồng loại trên tàu với đôi
mắt biết ơn. Người thì mặc áo sơ mi trắng, quần xanh, thắt cà vạt,
người thì mặc quần áo xanh công nhân. Tất cả đang nhìn anh với ánh
mắt thương hại pha chút thích thú. Ngọc ra dấu trả lại can nước
đày, chỉ giữ lại nửa can nước dùng dở. Anh sợ xuồng không chịu nổi
sức nặng của hai can nước. Trên tàu thả xuống cho anh ba ổ bánh
mì kẹp thịt. Vừa nắm được gói bánh anh vội bỏ vào miệng. Anh nhai
nuốt ngấu nghiến như một con thú hư ăn. Chỉ một thoáng ba chiếc
bánh đã nằm gọn trong bụng anh. Họ thả một túi gạo xuống cho anh.
Anh lắc đầu không lấy.
Ngọc thay khó chịu trong bụng. Mấy hôm nay ăn chút chút cầm hơi
bây giờ ăn một lúc ba chiếc bánh quá no làm anh mệt lử. Anh làm
hiệu xin lên tàu. Họ lắc đầu không cho. Ánh mắt anh van nài tha
thiết. Sao đồng loại nỡ bỏ nhau? Anh làm tới nắm chắc sợi dây đưa
đồ ăn không thả ra. Tiếng loa trên tàu oang oang may câu tiếng Hoa.
Anh chẳng hiểu gì cả. Bỗng tàu nhúc nhích chạy. Anh không kịp thả
dây ra. Xuồng anh chòng chành muốn chìm. Nước vô thuyền từng đợt
ào ào. Anh vội tát nước ra. Người anh mệt lả. Anh nằm xuống nhắm
mắt lấy chiếc nón lá che mặt. Anh cảm thay bềnh bồng ngất ngư. Con
thuyền trôi dật dờ trên biển.
Một lát sau Ngọc nghe thấy tiếng xuồng máy. Anh mở mắt nhìn. Khoảng
chục người Mỹ và Hoa ngồi trên một chiếc xuồng được tàu thả xuống.
Họ gọi anh tới sát xuồng cho một bao lớn trong có năm gói bánh bích
qui, bốn chai nước bằng nhựa trắng và sáu lon nước ngọt 7 Up dính
vào nhau bằng móc nhựa. Bụng đang no mà anh cũng không thể kềm được
đôi tay mở lon nước ngọt. Anh ngửa mặt lên tu một hơi. Anh tưởng
như đang được uống nước thánh nơi chốn thiên đường. Một người trên
xuồng máy chụp hình anh. Anh chỉ tay vào cổ tay trái có ý hỏi giờ.
Họ giơ bốn ngón tay. Đã bốn giờ chiều. Anh giơ tay chỉ về một phía
hỏi: "Hong Kong? Hai Nam?". Họ nói một tràng tiếng Anh.
Anh lắc đầu không hiểu. Họ chỉ tay về một hướng nói: "Hai Nam".
Anh hiểu đó là huớng tới Hải Nam. Anh giơ tay vẫy chào. Họ giơ tay
chào lại: "Bye! Bye!".
Ngọc cho xuồng đi mà mắt còn nhìn đám người trên xuồng máy, những
người mang đến cho anh niềm vui lẫn nỗi buồn. Vui vì nhìn thấy bóng
hình con người sau những ngày cô đơn trên biển cả, vì được ăn uống
no nê và khỏi phải bận tâm về lương thực trong những ngày tới. Buồn
vì bị từ chối không cho lên tàu, không được chung cái ấm áp của
đồng loại, buồn vì phải xa lìa con người, ôm lại nỗi cô đơn một
mình trước sóng gió. Anh nhắm hướng cho thuyền lủi thủi trôi trên
biển.
Thuyền trôi chưa được bao lâu, Ngọc thấy một chiếc tàu đánh cá
nằm trên đường đi của xuồng anh. Anh không tin ở mắt mình khi thay
số đăng ký của quốc doanh đánh cá Đà Nẵng. Sao lạ vậy? Anh mới roi
dàn khoan của Trung Quốc, vậy đây phải gần hải phận Trung Quốc lắm,
sao có chiếc tàu đánh cá Việt Nam nằm đây? Những chiếc thuyền thúng
kéo lưới rải rác đó đây làm Ngọc lo ngại. Họ có thể bắt giữ anh
nếu nghi là vượt biên. Mà trên thuyền của anh lại có số lương thực
khả nghi vừa được dàn khoan cho. Anh vội lấy áo mưa phủ lên gói
lương thực, làm bộ tỉnh táo vượt qua một chiếc thuyền thúng gần
anh nhất. Anh cố giữ khoảng cách càng xa càng tốt. Lúc tới ngang
thuyền thúng, người trên thuyền quay lại chăm chú nhìn anh. Ngọc
lên tiếng trước:
- Hơ!
Tiếng trả lời mừng rỡ:
- Hơ! Việt Nam phải không?
- Phải.
- Làm chi đó?
- Câu.
- Tàu đâu?
- Tàu đậu trong kia thả thuyền ra câu.
- Tới đây cho ít mồi này.
- Cám ơn. Có mồi rồi.
- Anh ở đâu vậy?
- Huế.Còn anh ở đâu?
- Đà Nẵng. Này, coi chừng tàu Trung Quốc mới đuổi tụi tui đó!
- Vậy hả?
- Về Đà Nẵng đi hướng nào vậy?
Ngọc chỉ đại hướng mới đi ra. Anh tìm cách rời xa đám này. Chần
chừ có thể bị lộ lắm. Anh giơ tay vẫy chào:
- Chào anh tôi đi nghe!
- Ờ!
Ngọc vội chèo xuồng đi một nước không quay đầu lại.
Mặt trời vừa lặn hết, gió tây nam trở lại, Ngọc vội giương buồm
lên, nhắm đúng hướng sao, cài bánh lái thật chặt rồi nằm xuống ngủ.
Giấc ngủ tới thật chậm chạp và nặng nề.
Mờ sáng ngày 23 tháng 6, Ngọc không nhìn thấy dàn khoan nữa. Trời
đột ngột vần vũ. Phía xa xa trắng xóa màn mưa. Gió lớn thổi ào ào
về hướng Đông. Anh lo sợ nhìn cơn giông đang kéo tới. Phải làm sao
giữ cho thuyền khỏi bị đắm. Anh vội kéo giây neo, cột chiếc bi đông
rỗng cách xa neo chừng hai thước rồi quăng xuống biển làm neo nổi
để mặc cho xuồng trôi với phía mũi luôn luôn giữ theo hướng gió.
Thủ thuật này anh đã học được của những người kinh nghiệm đi biển.
Chỉ một lát sau mưa ào ào quật tới tấp vào xuồng. Ngọc ngồi mặc
áo mưa hối hả tát nước ra. Con thuyền bé nhỏ lùng bùng trong khối
nước phũ phàng trắng xóa. Ngọc chẳng còn biết phương hướng nào trong
cái mù mịt đang vây phủ anh như một tấm vải liệm khổng lồ. Anh mải
mê chống đỡ không hở tay. Hơn một tiếng đồng hồ tả xung hữu đột
làm anh mệt nhoài khôn tả. Nếu cơn giông kéo dài chắc anh không
đủ sức chịu đựng. Anh vừa tát nước vừa thầm cầu trời cho biển êm
gió lặng. Chỉ một lát sau, mưa gió yếu dần rồi hết hẳn. Anh thở
phào nhẹ nhõm. Lại thêm một lần tai qua nạn khỏi.
Sau cơn giông, trời quang mây tạnh. Ngọc nhìn thầy mờ xa có dáng
núi là đà trên mặt nước. Anh đoán là xuồng anh đang ở hải phận của
Trung Quốc và đất liền phía trong hẳn là đất Trung Quốc. Đảo Hải
Nam chăng?Anh thầm mong điều suy luận của anh là đúng. Nhưng anh
bỗng lo sợ vì ngôn ngữ bất đồng nên may người trên dàn khoan chỉ
lộn hướng và anh đang trở về Việt Nam. Anh như người mù quờ quạng
giữa bốn phương tám hướng. Phải vào thăm thú mới biết được. Khi
gió tây nam thổi, anh giương buồm đâm thẳng vào bờ, khóa bánh lái
rồi ngủ.
Khoảng mười giờ đêm, khi Ngọc thức dậy tát nước, anh thấy hai
chiếc tàu lớn rực rỡ ánh điện cao ngất. Nguy quá! Xuồng anh không
có đèn. Nếu hai chiếc tàu này đâm thẳng vào xuồng anh thì cả xuồng
lẫn người sẽ tan nát trên mặt biển. Anh chăm chăm nhìn hai chiếc
tàu lướt ngang qua. Không đụng. Anh thầm nghĩ trời lại thương anh
lần nữa.
Sáng ngày 24 tháng 6, lại một cơn giông thổi từ trong bờ ra. Lần
này cơn giông nhẹ hơn nên Ngọc cũng đỡ vất vả hơn. Anh vẫn cố gắng
nhắm hướng núi cho thuyền vào bờ. Mắt đã thấy núi từ hôm qua mà
sao đường vẫn xa vời vợi. Những ngọn núi giăng giăng trước mặt làm
Ngọc phân vân không biết nơi nào gần nhất để hướng mũi thuyền tới.
Anh đành cứ nhắm vào ngọn núi nào thay rõ nhất vì anh nghĩ đó là
đoạn đường ngắn nhất. Đất liền mới thấp thoáng trước mắt mà lòng
Ngọc đã nôn nao bồn chồn. Những con sóng lao xao xô đẩy quanh thuyền
làm anh rời rã. Anh nghĩ tới một bến bờ như một nơi nương tựa vững
chắc sau những đêm ngày bập bềnh chao đảo. Mặt trời đỏ ong đang
sà dần xuống mặt biển. Ngọc ăn bánh uống nước thầm mong đây là bữa
ăn cuối cùng trên biển cả. Gió tây nam trở lại như một người bạn
đúng hẹn. Ngọc giương buồm, cài bánh lái, nhắm thẳng vào bờ gần
nhất rồi anh nằm xuống ngủ.
Sóng ầm ầm đánh thức Ngọc dạy. Tiếng sóng mạnh mẽ hối hả như vậy
khiến Ngọc đoán là xuồng đã vào gần tới bờ. Mặt trời vừa ló dạng
tỏa những chùm ánh sáng yếu ớt soi sáng cho Ngọc thấy vùng đất trước
mặt. Con thuyền nhỏ bé rùng mình trước những đợt sóng nhấp nhổm
xô đẩy nhau chạy vào bờ. Ngọc sợ những đợt sóng quái ác này sẽ đập
vỡ con thuyền nên vội vàng chèo trở ra chạy song song với bờ đất.
Một vài thuyền đánh cá chạy ngang. Anh vội vàng lấy chiếc bao trắng
đựng bánh của dàn khoan cho buộc vào đầu cần câu giơ lên phất lia
lịa cầu cứu xin dắt vào bờ. Mấy con tàu vô tâm làm ngơ tiếp tục
di chuyển. Ngọc chán nản nhìn theo bằng ánh mắt vừa tủi hận vừa
cam chịu. Anh cố gắng đưa thuyền vào bờ. Dòng nước ngược làm con
thuyền bướng bỉnh không chịu nhúc nhích theo nhịp chèo mạnh mẽ của
anh. Anh loay hoay lựa hướng vất vả trăm bề mới đưa được con thuyền
vào bờ. Anh neo thuyền, kiểm lại thấy còn một gói bánh bích qui
lớn, ba chai nước ngọt, một can nước và con dao. Anh đặt chân lên
bờ vào lúc 10 giờ sáng ngày 25 tháng 6 sau tám ngày đêm dở sống
dở chết trên biển. Anh đi sâu vào đảo bằng những bước đi khệnh khạng
cáng náng. Hai bên bẹn đau nhói xót xa theo nhịp bước. Nước muối
anh dội trên người cho qua cơn khát đã làm những kẽ trên người anh
lở loét đau đớn. Anh nhìn thấy một căn chòi tạm bằng tranh nằm giữa
bụi dứa phía trước mặt. Hai ông bà già ngồi chong mắt ngạc nhiên
nhìn anh đi tới. Nhìn quần áo, anh biết họ là người Hoa. Anh thở
phào nhẹ nhõm, vui mừng vì không đặt chân lên quê hương mình. Anh
đã tới nước người. Nỗi mừng vui làm anh nghẹn ngào chua sót.
Mấy người dân chài lưới xúm xít vây quanh Ngọc nhìn anh bằng những
cặp mắt ngạc nhiên như thể anh từ một thế giới khác tới. Họ chỉ
chỏ xí xô hỏi anh. Anh lắc đầu không hiểu. Những bộ mặt đen đúa
nằm dưới những chiếc nón có chóp nhọn nhe răng ra cười ngây ngô.
Anh liếc nhìn thay có chiếc giếng nước bèn làm bộ điệu xin tắm.
Họ gật đầu. Anh múc nước xối lên người. Nước chảy tới đâu muối tan
ra tới đó. Anh cảm thấy sự thoải mái chạy từ từ khắp người. Bộ quần
áo dầy như mo cau mềm lại theo dòng nước ngọt. Người anh như được
hồi sinh. Nhẹ nhàng từ thân xác tới tâm hồn. Sự bình an tươi mát
như một cơn mưa tham suốt trong anh.
Anh nhìn ra con thuyền thân thương đã đưa anh tới bến bờ. Mấy
người chài lưới đang lục lọi lấy đồ trong thuyền. Chợt lóe trong
anh một ý nghĩ khôi hài: ít ra mình cũng có chút quà cho những người
chủ nhà mới quen này. Anh làm dấu xin cơm ăn. Họ mang cơm cá đến
và đứng nhìn anh ăn ngon lành. Anh cúi đầu ăn không biết ngượng.
Chỉ khi bụng đã lưng lửng no anh mới cảm thấy mình tội nghiệp như
một tên hành khất khốn khổ ngốn từng vốc cơm trước con mắt thương
hại của những người tốt bụng. Ăn xong anh ra dấu muốn ngủ rồi trải
áo mưa trên cát ngủ li bì không biết trời trăng gì.
Khi anh mở mắt dạy thì trời đã nhá nhem tối. Mắt anh nhức nhối
như bị một con dao cào xát. Cái nắng chói chang trên biển cả đã
làm mắt anh đau mở không muốn ra. Chỉ còn hai người đàn ông đứng
tuổi và một thanh niên ngồi lại chòi canh. Họ thắp đuốc mang đến
cho anh cơm và mấy khúc cá chuồn lớn bằng miệng chén bảo ăn. Cá
tanh nhưng ngọt lịm. Họ nhìn anh ăn với ánh mắt thích thú vô cùng.
Ăn xong anh viết chữ Hainam lên cát, lấy tay chỉ vào hỏi. Họ gật
đầu nói: "Hainam". Anh chắc chắn mình đã tới bến. Nước
mắt anh bỗng nhiên trào ra. Nỗi mừng râm ran khắp người. Anh cảm
thấy người lảo đảo. Như vẫn còn những lượng sóng bập bềnh chung
quanh.
Ba cặp mắt nhìn anh hỏi han. Anh nghe loáng thoáng thấy chữ baba,
mama. Anh gật đầu. Họ cười. Anh viết chữ Vietnam lên cát. Họ gật
đầu. Một người làm dấu đeo nhẫn nơi ngón tay. Anh đoán họ hỏi anh
có vợ chưa. Anh gật đầu. Họ làm bộ điệu ẵm con nhỏ. Anh giơ một
ngón tay. Họ cưoi nói: "Hẩu à! Hẩu à!". Câu chuyện khập
khiễng như vậy mà vui. Những cái đập vai mạnh mẽ, những nụ cười
chân chất, những câu nói mạnh ai nấy nghe làm Ngọc cảm thấy ấm cúng
tình người. Biển vẫn còn dạt dào bên cạnh mà anh thấy như đã xa
lắm những giờ phút cô đơn trong con xuồng nhỏ.
Sao đã trải ra đầy trời. Họ rủ Ngọc vào chòi ngủ. Nhìn căn chòi
nhỏ bé, Ngọc làm hiệu muốn ngủ ở ngoài. Anh xuống bãi khiêng thuyền
lên, lật úp lại rồi chui vào đắp áo mưa ngủ. Những ngày chống chỏi
với sóng gió hiểm nguy, đầu óc Ngọc dồn hết vào sự sống còn của
bản thân. Đêm nay tạm nằm an lành trên đất liền hình ảnh vợ con,
cha mẹ, xóm làng xúm xít kéo tới. Mỗi khuôn mặt là một tiếng thở
dài. Anh như chới với trong cái vời vợi cách trở. Biết bao giờ mới
được ôm lại vợ con, nhìn lại cha mẹ, sống lại với xóm làng. Anh
chẳng có một chút hy vọng nào trước mặt. Câu chuyện múa may bằng
tay với những người chài lưới chat phác trở lại với anh. Họ hỏi
thăm bố mẹ vợ con anh một cách tự nhiên như những điều mà mỗi con
người đều phải có. Những mắt xích ruột thịt dịu dàng nối kết cuộc
sống. Vậy mà anh đã gạt tất cả để một mình vất vưởng nổi trôi vô
định. Những hạt cát dưới lưng như muôn ngàn mũi kim châm chích vào
da thịt làm anh đau nhói tới tâm can. Giấc ngủ chập chon ma quái
như có như không.
Ngọc đang mơ mơ màng màng thì nghe thấy tiếng đập vào xuồng. Anh
nhấc xuồng, lật áo mưa ngó mặt ra coi. Hai người mặc đồ ka ki vàng,
đeo súng lục đứng nhìn anh. Anh vội ngồi dậy. Một người ôm trái
dưa hấu trên tay vẫy anh thân thiện. Họ ngồi xuống đập trái dưa
hấu mời Ngọc ăn. Anh nhanh nhẹn đỡ miếng dưa vì sợ sệt không dám
làm trái ý những người có súng. Họ cười, cắn dưa và ra hiệu bảo
anh ăn. Miếng dưa ngọt mát làm Ngọc tỉnh táo. Ba người ăn hết trái
dưa rồi họ đứng dạy ra dấu bảo anh ngủ tiếp. Ngọc ngẩn người nhìn
họ đi rồi chui vào thuyền. Anh nghĩ có lẽ họ được thông báo sự có
mặt của anh nên mang trái dưa hấu ra chào mừng khi họ đi tuần tra.
Anh cảm thấy ấm áp trong lòng.
Ánh sáng len lỏi vào thuyền đánh thức Ngọc dậy. Đã lâu lắm mới
có một buổi sáng chồm dạy đứng trên hai chân vững vàng như sáng
hôm nay. Anh kiếm nước rửa mặt rồi đứng nhìn quang cảnh chung quanh.
Nơi đây có lẽ chỉ là một góc khuất nẻo xác xơ của đảo Hải Nam. Nếu
chôn chân ở đây anh không hy vọng tới Hồng Kông được. Phải kiếm
tới nơi thị tứ. Anh mau chóng quyết định tiếp tục cuộc hành trình
e sợ sự chậm trễ sẽ làm tinh thần anh lụn bại không dám nhào ra
biển lại. Gặp mấy người chài lưới hôm qua, anh làm dấu chào tiếp
tục ra đi. Họ cản anh lại chỉ tay ra sóng gió ngoài biển. Anh lắc
đầu cương quyết. Họ mang cơm cá ra cho anh ăn. Ăn no rồi họ còn
bọc thêm cho anh một gói. Anh sợ cá để lâu sẽ tanh nên không lấy
cá. Họ đưa cho anh thêm gói muối và bình nước. Anh vác thuyền xuống
biển. Họ đứng vẫy tay từ giã. Anh thấy bùi ngùi lưu luyến những
con người tốt bụng chất phác này.
Ngọc căng buồm đón gió tây nam đẩy xuồng đi. Anh cảm thấy khỏe
khoắn sau một ngày nghỉ ngơi tắm rửa trên đất liền. Xuồng mềm mại
chạy dọc theo đảo. Đất liền khi tỏ khi mờ bên phía tay trái như
một chỗ dựa vững chắc khiến anh an tâm. Sóng lao xao vỗ vào mạn
xuồng đùa nghịch giờ nọ qua giờ kia. Ngày mau chóng trôi qua. Trời
sụp tối nhanh chóng. Anh định cho thuyền ghé vào bờ để ngủ thì thấy
một bãi cát dài nằm vắt bên bờ đảo. Chẳng có một eo biển nào cho
thuyền anh ghé đỗ. Đành phải thả neo ngủ trên xuồng. Sóng như những
anh khổng lồ không tim nhồi xuồng không chút xót xa. Ngọc sợ sẽ
có những ngọn sóng vỗ cao làm chìm xuồng nên vội vàng nhấc neo chèo
thuyền ra xa bờ hơn. Những ngọn sóng ngoài khơi bớt hung hăng làm
Ngọc yên tâm bỏ neo ngủ tiếp. Giấc ngủ chập chờn rung rinh làm Ngọc
thèm cái an bình vững chãi trên đất liền đêm trước.
Trời vừa hừng sáng, đám tàu đánh cá đêm lừng lững trở về. Chiếc
xuồng nhỏ cheo leo bên những con tàu lớn làm anh thấy hết cái mỏng
manh phận mình. Anh đứng lên lấy nón vẫy làm hiệu cho đoàn tàu tránh
xa sợ chạy sát quá đứt dây neo của xuồng. Đoàn tàu an lành vượt
qua. Ngọc kéo neo, tiếp tục chèo thuyền theo ven biển khi mặt trời
rạng rỡ trở lại. Đôi tay anh nhịp nhàng đẩy mái chèo đưa con thuyền
nuốt từng thước nước. Không còn ám ảnh bởi đói khát, không còn canh
cánh nỗi hiểm nguy, cuộc hành trình đã nhẹ nhàng đi nhiều phần.
Không còn sự thách đố của biển cả mà chỉ còn cung cách đối xử của
con người. Anh đã được đón tiếp tử tế ngày hôm qua, nhưng sao lòng
anh vẫn vẩn vơ e ngại sự hắt hủi của những ngày tới.
Mặt trời ngất ngưởng trên cao soi bóng con thuyền co quắp tội
nghiệp. Ngọc nhìn thấy lối vào cảng của tàu đánh cá. Anh cho thuyền
trực chỉ vào đất liền. Từng bầy thanh niên thiếu nữ đội mũ tai bèo
chạy ra bờ. Anh thả neo bước lên bờ xin cơm ăn. Cho ăn xong họ đuổi
anh đi liền. Anh giơ bình xin nước uống. Một người đang phơi quần
áo chỉ anh tới giếng. Một ông già thấy tội nghiệp bưng cho một tô
giống như bánh canh bảo ăn. Anh ngồi xuống húp xì xụp tô bánh lẫn
lộn vừa bột vừa tôm cua thấy ngon chi lạ. Anh trả lại tô, ú ớ cám
ơn ông già tốt bụng. Anh lấy que vẽ trên cát hình chiếc tàu thả
giây kéo chiếc thuyền nhỏ để xin kéo thuyền đi. Họ lắc đầu đuổi
đi sau khi cho một gói bánh bích qui đựng trong túi nhựa. Anh còn
đang nằn nì thì một nhóm người khác đã xô thuyền anh ra biển. Anh
vội chạy ra bờ biển kéo thuyền lại, leo lên chèo ra khơi. Anh mải
miết chèo tới tối thì gặp sóng lớn nên không có cách nào cho thuyền
vào bờ được. Anh vội chèo tới một hòn đảo nhỏ cách bờ độ sáu cây
số. Thuyền vừa tới đảo, anh nhẩy xuống tháo hai bánh lái phụ và
kéo thuyền lên. Anh đi lòng vòng quanh đảo thấy chỉ có toàn đá và
những bụi cây cao ngang đầu gối. Không gặp một bóng người nào cả.
Anh hơi rợn người khi thấy mình đứng trên một đảo hoang. Đành phải
liều vậy. Anh mở gói bánh ra ăn, uống nước no nê rồi lật úp thuyền
xuống chui vào trong ngủ.
Sáng hôm sau, Ngọc chèo thuyền ra đi. Chèo mải miết tới trưa mới
gặp một bờ biển khá sầm uất. Anh cho thuyền ghé vô. Mắt anh rạng
rỡ khi thấy một khu dân cư nho nhỏ với những mái nhà lụp xụp và
một khu chợ nhỏ vẻn vẹn vài quầy bán trái cây, giày dép, bánh kẹo
như một cái chợ trời nhỏ ở Việt Nam. Anh tới một quầy bán đồ ăn
xin ăn. Cái bản mặt nhếch nhác của anh như đã chai lì nên xin ăn
thật thành thạo. Họ cho anh một tô cháo trắng bỏ đường và một chén
cá nục luộc. Cá vừa tanh vừa mặn xông lên mùi khó chịu. Bụng đói
nên thoáng một cái anh đã ăn xong. Một bà già ngồi bên cạnh thương
hại cho anh một to giấy bạc. Có lẽ là một đồng vì anh nhìn thấy
số một trên tờ giay bạc. Anh cầm tờ bạc, cám ơn và lết tới hàng
bánh. Anh giơ tờ giay bạc tay chỉ gói bánh. Bà hàng đưa cho anh
một gói, móc túi lấy tiền thối lại. Anh xua tay chỉ vào đĩa bánh
chiên trông như bánh cam bên nhà. Bà đưa cho anh hai chiếc. Anh
vừa đi vừa ăn bánh. Sao mà ngon lạ ngon lùng đến vậy.
Một người đàn ông lớn tuổi đi ngược chiều nhìn anh tủm tỉm cười.
Anh cúi đầu chào. Ông đưa tay ra bắt tay anh ý muốn nói chuyện.
Anh kéo ông ngồi xuống vẽ bản đồ Việt Nam trên đất rồi chỉ tay vào
người nói Việt Nam. Người đàn ông gật gù ra vẻ hiểu. Anh chỉ tay
xuống đất hỏi Hải Nam. Ông ta lại gật đầu. Anh chỉ chung quanh hỏi
đường đi Hồng Kồng. Ông lắc đầu không biết.
Ngọc trở lại thuyền ra khơi tiếp tục cuộc hành trình. Anh giương
buồm theo gió tây nam đi tới lúc mặt trời lặn. Những điểm trắng
mờ dưới nước làm anh khựng lại quan sát. San hô! Những mảng đá lởm
chởm dựng đứng trông dễ sợ. Sóng vỗ vào đá làm thuyền anh chập chờn
nguy hiểm. May là thuyền nhỏ nổi cao nên không đụng san hô. Thoát
ra khỏi bãi san hô, Ngọc quay lại nhìn mà còn thấy rùng mình. Nếu
thuyền anh lớn hoặc nặng thêm một chút thì không hiểu bây giờ mạng
sống anh ra sao.
Mặt trời hạ xuống sát mặt biển. Ráng chiều nhắc anh tìm chỗ ngủ
qua đêm. Anh nhìn thay một eo biển khuất sóng nên vội cho xuồng
ghé vào. Anh tưởng như hoa mắt khi thấy một chiếc ghe cong trên
bo. Thứ ghe này anh quá biết. Đi biển hết xảy. Chém sóng ngọt như
chém bùn. Sóng chưa đánh tới, đầu ghe đã được nhấc lên an toàn.
Loại ghe này làm gì có ở Trung Quốc. Chắc chắn là một ghe vượt biên
của dân Việt. Ngọc cảm thấy nôn nao khôn tả nhưng vẫn tự nhủ phải
coi chừng. Thói quen cảnh giác từ sau ngày mất nước đã trở thành
bản năng sinh tồn trong anh lúc nào không biết. Nó bám cứng anh
như cái bướu thảm thương trên lưng một người gù. Nhìn thấy đồng
bào trong lúc bơ vơ nơi đất người cũng chẳng được trọn niềm vui.
Anh cố lấy vẻ thản nhiên đi về phía chiếc ghe.
Trước mũi ghe tụ tập một đám khoảng hai chục người đang nấu ăn
trên cát. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt. Lâu lắm mới lại
nghe được thứ tiếng nói lịm hồn này. Anh làm bộ đứng coi chiếc ghe
máy lạ. Một người liếc nhìn anh buông tiếng chửi thề: “Đ.M. thằng
tàu nào tới coi ghe làm chi vậy?”. Ngọc thấy tức cười trong bụng.
Câu chửi tiếng Việt nghe cũng dễ thương chi lạ. Anh quay qua đám
dân vượt biên lên tiếng hỏi:
- Mấy anh từ đâu tới vậy?
Cả đám người im lặng nhìn anh sững sờ. Người thốt ra câu chửi
rụt rè hỏi:
- Anh ở đây hay vượt biên tới vậy?
- Vượt biên!
Những cặp mắt tròn xoe ánh lên vẻ mừng rỡ. Nhiều giọng nói tíu
tít hỏi:
- Anh đi từ đâu vậy?
- Lăng Cô. Còn các anh ở đâu?
- Tụi tui mười người ở Huế, mười một người từ Nha Trang. Mà anh
đi với đoàn nào vậy?
- Tôi đi một mình!
Những khuôn mặt ngạc nhiên nhìn Ngọc sững sờ như không tin ở tai
mình. Một người e dè hỏi:
- Đi một mình? Tàu anh đâu?
Ngọc chỉ chiếc xuồng của anh. Họ chạy ra coi. Cánh buồm vẫn còn
chữ S.O.S. in hình lên trời như một cánh tay ngạo mạn thách thức.
Một người quay lại hỏi anh:
- Anh vượt biên từ Lăng Cô bằng chiếc xuồng nhỏ xíu này thực sao?
Ghê quá vậy!
Họ mời Ngọc tới ăn cơm chung. Tiếng nói chuyện rôm rả làm Ngọc
có cảm tưởng như đang ngồi ở một làng đánh cá ven biển miền Trung.
Nhóm người Nha Trang kể tàu của họ đi gần tới Phi Luật Tân bị hỏng
máy trôi dạt về tới đảo Hải Nam. Hai người trên tàu không chịu nổi
đói khát đã bỏ thây trên biển cả. Tới gần đảo, họ gặp một chiếc
tàu đánh cá Trung Quốc bèn đưa một chiếc nhẫn thuê kéo vô đảo. Khi
lên bờ người nào người nấy ốm nhách như những bộ xương đi không
muốn nổi, bước trên cát mà té chui té nhũi. Nhà chức trách trên
đảo phải đưa xe hơi tới chở tất cả đi bệnh viện chích thuốc, nghỉ
ngơi và bồi dưỡng cho lại sức.Tàu của họ bị hư hại nặng phải cho
sửa.
Ngọc thấy mình như một con chim lẻ bày giữa đám đông cùng xứ sở.
Họ đi chung với nhau lâu ngày, gánh chung hiểm nguy, chịu chung
đói khát nên kết tụ lại với nhau thành một khối cứng ngắc. Anh như
một hòn đá cô đơn muốn bám víu vào mà nghe như có sự lệch lạc hững
hờ. Nhân một lúc vui chuyện, Ngọc hỏi người thuyền trưởng của tàu
Huế xin nhập bọn tiếp tục cuộc hành trình. Câu trả lời nhận được
làm Ngọc thấy buồn trong bụng: "Để hỏi lại mấy người cùng tàu
đã".
Ngày hôm sau, sáng sớm giữa lúc Ngọc đang ngủ thì tai nghe tiếng
máy tàu. Anh nhỏm dậy thay tàu Huế đã quay mũi ra khơi. Anh vội
nhảy xuống xuồng chèo theo nhưng không kịp. Câu trả lời phũ phàng
như một dấu chấm hết.Kể từ lúc ra đi Ngọc chưa bao giờ thấy chán
nản như vậy. Anh thẫn thờ chèo thuyền rong ruổi mong tìm được chút
hy vọng khác. Con xuồng nhỏ di chuyển có vẻ nặng nề hơn. Ngọc như
phó mặc số phận cho dòng nước mỗi lúc như tô đậm thêm nỗi đe dọa.
Tới trưa bụng đói cồn cào mà trên thuyền chẳng có gì ăn, Ngọc ghé
vào một eo biển có mấy người chài lưới đang ngồi ăn cơm. Anh tới
đứng chực một bên cho người ta ăn xong. Như một tên ăn mày thành
thạo, mặt chai lì không biết xấu hổ. Mấy người chài lưới cũng còn
tử tế. Họ đưa cho anh mấy nắm cơm và khúc cá luộc. Anh gục đầu ăn
vội vã. Cho cho anh ăn xong họ đuổi anh đi.
Ngọc ngao ngán tiếp tục cuộc hành trình.Đầu óc anh quay cuồng
chán nản. Chiếc xuồng tội nghiệp của anh so với những tàu đánh cá
xung quanh trông như một đứa bé nhếch nhác bệnh hoạn. Nước vào thuyền
mỗi lúc mỗi nhiều khiến anh phải tát nước không ngừng. Sóng gió
và những tảng đá ngầm đã triền miên hành hạ làm con xuồng như một
người bệnh kiệt quệ. Vừa chán nản, vừa ngại hiểm nguy, Ngọc cho
thuyền vào bờ, cột lại kỹ lưỡng, đi bộ trở về với nhóm người Nha
Trang. Anh nhìn con thuyền đã cùng anh nếm đủ ngọt bùi nằm cô đơn
trên bo biển mà không cầm được nước mắt.
Đường bộ trở về gập ghềnh nguy hiểm. Ngọc leo lên từng mỏm núi
nhô ra biển, vượt qua những khúc đường rậm rạp quanh co, trèo xuống
những hốc đá cheo leo hiểm trở. Anh đi từ năm giờ chiều tới mười
giờ đêm mà mới chỉ vượt được một khoảng đường ngắn. Người mệt lả,
bụng cồn cào, Ngọc đánh liều đào một cái hố chui xuống ngủ cho bớt
gió. Anh nằm vật vờ như người chết trong phần mộ của mình.
Ánh mặt trời sớm đánh thức Ngọc dậy. Anh tiếp tục nuốt đoạn đường
chông gai. May mắn anh gặp một đám dân đánh cá đêm vừa trở về. Họ
vừa chuyển cá lên bờ xong đang sửa soạn ăn uống. Anh ngừng lại đến
cạnh đứng cho xin ăn. Họ cho anh cơm ăn với cá, thức ăn có lẽ là
độc nhất của dân chài lưới. Họ vui miệng nói chuyện với anh. Anh
ra dấu không hiểu. Họ dùng điệu bộ hỏi anh có vợ con không. Anh
viết lên cát hai chữ Hán nữ và tử, chỉ tay gật đầu. Họ tỏ vẻ thương
hại anh. Một thanh niên đưa thuốc mời anh hút. Bao thuốc nhàu nát
chỉ còn mấy điếu lẻ loi.
Ngọc chia tay đám người tốt bụng mải miết đi tới chiều mới về
tới chỗ đám người Nha Trang tụ tập. Anh nhập bọn với họ mà lòng
cảm thấy ấm áp như được trở về với gia đình. Những ngày tân khổ
đã đủ cho lòng anh mềm nhũn vị cô quạnh. Anh cần được sống giữa
một đám đông, nhất là đám đông đồng bào ruột thịt của anh. May cho
anh về vừa kịp lúc. Tàu Nha Trang đã được nhà chức trách trên đảo
cho sửa chữa xong. Một tên công an biết chút ít tiếng Việt tới thông
báo quyết định cho đi bằng một giọng cứng cỏi chậm rãi: "Tàu
của các người đã được sửa xong. Bây giờ tiếp tục đi tới Hong Kong".
Hai thùng bánh được khiêng xuống tàu làm quà cho đám dân vượt biên.
Tàu chạy từ từ ra biển. Ngọc lạ lùng với cuộc hải hành mới. Những
bóng người lăng xăng quanh anh và con tàu lớn vững vàng làm anh
cảm thấy biển như hiền hòa nhỏ nhẹ hơn. Anh dõi mắt xuống mặt biển
phía dưới lòng lâng lâng như được nhấc lên cao theo con tàu đang
thản nhiên đè lên những ngọn sóng tầm thường thấp kém.
Tàu đi được vài tiếng đồng hồ thì hư máy. Mọi người nhìn nhau
lo âu. Tài công cố sửa máy không được đành phải cho tàu ghé vào
bờ. Mọi người đồng ý đi bộ quay lại chỗ cũ. Đám công an giận dữ
khi thấy đoàn người trở lại. Đám khách không mời này thật phiền
phức. Tên công an nói tiếng Việt trút cơn thịnh nộ lên đầu Ngọc:
- Có phải ông đi xuồng S.O.S. không?
- Phải.
- Sao không tiếp tục đi bằng xuồng?
- Xuồng hư rồi.
- Xuồng còn tốt mà! Sao vứt hai thùng bánh đi?
- Tàu hư không mang về được.
- Các người nói không thật thà.
Ngọc không dám cười câu tiếng Việt ngây ngô của tên công an. Mười
hai người tị nạn không được phát cơm nấu sẵn như trước nữa. Mỗi
ngày công an cho bốn kí gạo bắt thổi nấu lấy. Mọi người ngậm câm
chịu trận. Được vậy cũng còn tốt chán. Mấy ngày sau, cơn giận dữ
trôi qua, mấy tên công an vui vẻ trở lại. Một bữa, tên công an nói
tiếng Việt hớn hở loan báo: "Tôi báo cho các người một tin
vui. Đồng chí Lê Duẩn (anh ta lắc đầu nói lại) Không phải. Ông Lê
Duẩn đã chết rồi".
Ngày 15 tháng 7, công an cấp cho đám người tị nạn một chiếc tàu
khác để tiếp tục ra đi. Tàu nhổ neo vào lúc một giờ trưa chạy cặp
sát theo ven bờ. Đến đêm biển nổi sóng dữ dội. Tàu khặc khừ như
người ốm dạy. Máy nóng, chân vịt cong, tài công phải cho tàu tấp
vô bờ. Súng từ trên bờ nổ ran đuổi tàu đi. Mọi người sợ co rúm người
lại. Tài công vội đưa tàu ra bỏ neo ngoài khơi chờ sáng.
Sáng hôm sau tàu lại quay mũi xin vào bờ. Công an bắt mọi người
phải ở yên trên tàu. Đám trai tráng tháo láp rút chân vịt ra xin
vô sửa. Họ chỉ cho hai người vào làng thuê thợ rèn đập chân vịt
lại. Khi trở ra, công an theo lên tàu coi ráp chân vịt xong xuôi
mới đuổi tàu đi.
Đám người bất hạnh lại rong ruổi trên biển cả. Mặt trời mọc. Mặt
trời lặn. Ngày qua đi với niềm hy vọng sớm tới Cảng Thơm. Cảng chưa
thấy đâu nhưng mùi thơm đã bay tới. Một tàu đánh cá kéo cờ Hồng
kông xuất hiện. Mọi người leo lên boong rối rít vẫy gọi. Con tàu
của xứ sở cho mong cặp sát vào tàu tị nạn. Gạo, thuốc lá, nước ngọt
được chuyển qua. Cộng thêm một cánh tay chỉ đường tới Cảng. Và một
nụ cười chúc lành. Cũng đủ ấm lòng những con người lang thang đi
tìm một quê hương mới.
Tàu đã tới cuối đảo Hải Nam. Bảy ngọn núi giăng giăng trùng điệp
trên đảo như những vòng tay từ biệt. Giã biệt hòn đảo thân tình
đã cho những ngày dừng chân nồng ấm trên đường phiêu bạt. Nhưng
đảo có lẽ còn muốn níu kéo người. Tàu rơi đúng vào một vùng nước
xoáy chập choạng như một tên người gỗ say rượu. Một trận bão kéo
tới như bồi thêm một cú trời giáng. Con tàu chẳng còn sức chịu nổi,
lao đao trôi giạt vào bờ. Hôm đó là ngày 19 tháng 7.
Tàu hư hại hoàn toàn nằm chỏng chơ như một xác chết. Hơn một chục
người đứng sững ngắm sự tuyệt vọng có thật trước mặt. Không khí
u ẩn như một đám tang. Một chiếc xe díp công an chạy tới. Người
giỏi tiếng Anh nhất trên tàu, cô Hiền, trả lời cuộc thẩm vấn, khai
danh sách những người trên tàu và tất cả được chở đi bằng xe díp
lớn của công an. Nơi đến là một chỗ làm mọi người ngơ ngác: một
tửu lầu. Công an bảo mọi người vô bàn ăn muốn kêu gì ăn thì kêu.
Tờ thực đơn bằng tiếng Hoa như muốn diễu cợt với đám thực khách
ngượng ngùng bối rối. Múa chân múa tay một hồi rồi mỗi người cũng
có một tô mì xe lửa trước mặt. Một thực khách bên bàn kế cận quay
sang hỏi bằng thứ tiếng Việt cứng cỏi:
- Việt Nam hả?
- Dạ, Việt Nam.
- Ăn cơm chưa?
- Kêu rồi. Sắp ăn. Ông nói tiếng Việt giỏi quá!
- Hồi trước tao ở Việt Nam, còn mày ở đâu? Hồi trước kia tao ở
Phan Thiết.
Ngọc chợt nghĩ tới một hình ảnh ngộ nghĩnh. Tiếng Việt như một
anh chàng ưa đùa dai lúc nào cũng đưa chân cẳng ra ngáng cho người
khác ngã. Chỉ cần phát ngôn vài tiếng xưng hô đơn giản, nạn nhân
đã lăn quay ra đất.
Mấy anh công an đứng gác ngoài cửa nhìn vào với vẻ mặt trang nghiêm
như đang công tác với đoàn khách...quốc tế. Ăn uống xong mọi người
nhìn nhau lo ngại. Tiền đâu trả? Như đọc được nỗi lo ngại trên mặt
mọi người, một công an vào quầy trả tiền ghi giấy rồi kêu mọi người
đi. Họ dẫn tới nơi không ai ngờ tới: một khách sạn khá sang. Phòng
ngủ sạch sẽ, tươm tất có ti vi đàng hoàng. Một anh công an biết
tiếng Việt được đưa tới làm biên bản và dặn cứ ở khách sạn cho giải
quyết.
Bốn ngày sau, Công an mang xe tới chở ra bến tàu. Một chiếc tàu
bốn lốc mang số Quảng Ngãi với 24 người tị nạn ở sẵn trên tàu đang
chờ đám khách bất đắc dĩ. Mười hai người lếch thếch leo lên tàu
tiếp tục cuộc hành trình. Trời đẹp, tàu lớn làm mọi người yên tâm
hy vọng. Ba giờ chiều ngày 23 tháng 7, tàu rời bến trực chỉ Hồng
Kông. Cuộc hải hành chót là một kỷ niệm đẹp của Ngọc. Tàu chạy êm
ru trong ba ngày đưa 36 người tị nạn tới một nơi ánh sáng rực rỡ
từ mặt biển tới đỉnh núi. Hồng Kông lúc trời sắp rạng sáng nằm quyến
rũ như một chốn thiên đàng trong tầm tay. Ba mươi sáu cặp mắt say
mê đờ đẫn. Niềm vui đày ắp trong người vỡ tung tràn lan tới những
bàn tay đang điên cuồng vứt tat cả đồ đạc, quần áo xuống biển. Tàu
Cảnh Sát Hồng Kồng chạy ra thông báo là Hồng Kồng đã đóng cửa trại
tị nạn từ ngày 2 tháng 7 năm 1982, nếu tàu muốn đi tiếp họ sẽ giúp
đỡ, nếu không mọi người sẽ phải vào trại cấm. Mọi người bằng lòng
vào trại cấm. Cảnh sát hướng dẫn mọi người qua tàu của họ, chỉ để
hai người ở lại lái tàu theo. Tàu Cảnh Sát cặp vào xà lan. Nhân
viên Cục Di Dân xuống làm việc. Hai giờ chiều ngày 26 tháng 7, đám
dân vượt biên được chuyển vào phòng cách ly. Đầu óc Ngọc tê liệt
trống trải. Anh ngồi như một pho tượng chảy nước mắt. Anh đã cách
ly với quê hương, cách ly với ruột thịt gia đình, cách ly với những
ngày nhọc nhằn bấp bênh trên biển cả. Cách ly. Sao chữ nghĩacó lúc
tàn nhẫn như vậy!
*
* *
Một tháng chín ngày không phải là thời gian dài. Nhưng nếu tính
từng phút trực diện với thần chết, đối đầu với tuyệt vọng, thách
đố với hiểm nguy thì mỗi phút là một thời gian không phải ngắn.
Một tháng chín ngày kết hợp bởi một chuỗi giây phút căng cứng như
vậy phải là một thời gian lê thê nặng nề vo chặt con người trong
nỗi khủng khiếp tai quái. Ngọc ngồi trước mặt tôi trong một căn
phòng tồi tàn dưới hầm một tòa nhà cũ rích ở Montreal không có vẻ
là người có đủ can đảm tung mình vào cái mênh mông đầy bất trắc
của đại dương, có đủ nghị lực căng mình chống trả với sóng gió,
bão táp cuồng nộ của biển khơi. Tôi không thay gì đặc biệt nơi khuôn
mặt xương xương tai tái, nơi đôi tay khẳng khiu đen đúa, nơi dáng
người cao cao chênh vênh. Chỉ có cặp mắt và đôi lông mày. Cặp mắt
lì lợm cương quyết vẫn còn hằn rõ những tủi nhục đầy đọa nơi quê
cũ. Đôi lông mày rậm rạp giao nhau như hai con sâu xù xì đang cụng
đầu nhau thách đố. Và có một điều tôi không nhìn được nhưng đã rờn
rợn cảm thấy tới tận cùng tâm can khi ngồi nghe giọng kể bình thản
về một chuyến đi không một chút bình thường.
Đã có nhiều người vượt biển. Đã có nhiều cách ra đi. Chuyến đi
nào cũng là một phiêu lưu vô định. Tai ương nào cũng là đáy vực
thảm sầu. Người Việt bỏ nước mỗi người đều có những mất mát tận
cùng chưa một dân tộc nào phải gánh chịu. Viết thêm về một chuyến
đi nghĩ ra cũng chẳng làm nặng thêm được những mất mát tự nó đã
muôn phần chĩu nặng. Vậy mà tôi vẫn không thể không cầm bút kể lại
câu chuyện này. Câu chuyện của người đi biển, một mình.