Kính thưa quý vị,
Thưa các bạn,
Ba tuần trước đây, anh Nguyễn tấn Khang trao cho tôi cuốn Đặc San
Bưởi-Chu văn An mà quý vị đang có trong tay và nhờ tôi giới thiệu
trong buổi ra mắt hôm nay, tôi đã ngần ngại rất nhiều. Đặc san do
nhiều người viết rất phong phú và đa dạng nên việc giới thiệu không
phải là dễ dàng. Nhưng sự ngần ngại đã nhanh chóng tan biến khi tôi
đọc lướt qua bài viết của các đồng môn. Qua 100 trang báo đày ắp tâm
tình của các đồng môn, tôi đã nắm bắt được không khí của những ngày
cũ. Kỷ niệm tưởng đã cằn cỗi trong trí bỗng cựa mình trở dậy tươi
mát hơn bao giờ hết. Trường cũ, thầy xưa, bạn bè một thuở. Đã gần
bốn chục năm qua mà sao như vẫn còn nguyên vẹn những ngày Chu văn
An cũ.
Năm 1954 tôi vác bút đi thi nhập học trường Chu văn An vừa bắt đầu
hoạt động tại Sàigòn. Nói là đi thi nhưng chữ nghĩa trong người đâu
có còn bao nhiêu. Nó rơi lả tả trên đường di cư từ Bắc vào Nam. Vậy
mà ngày dán bảng kết quả tôi vừa dò tên đã thấy ngay tên mình trên
bảng. Bởi vì tôi biết thân biết phận nên đã dò từ dưới cuối bảng dò
lên. Đậu gần chót nhưng vẫn thấy lòng dấy lên niềm hãnh diện: mình
đã trở thành dân Chu văn An.
Niềm hãnh diện chẳng là của riêng tôi. Đọc Đặc san Bưởi - Chu văn
An tôi mới biết là mấy chục năm trước đã có một bậc tiền bối sống
những giờ phút tương tự như tôi. Đồng môn huynh trưởng Đào Huy Kình
đã kể lại trong bài "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" như sau: "
Một buổi chiều thu, gió heo may xào xạc thổi qua những chùm lá sấu,
một rừng người vẻ mặt băn khoăn đứng đợi nghe đọc kết quả trước một
tòa nhà ba tầng. Một ông tây to lớn đứng trên thềm cao, cầm danh sách
đọc...Số 1 Lê giáp Độ, số 2, 3, 10, 15. Rồi 20, 30, 50, gần tới số
100 rồi chưa thấy tên mình. Rồi 120, 130, 135, 137, 138, 140, 141
Đào Huy Kình. Giật mình, sửng sốt, tôi nhảy quẫng lên vì quá mừng.
Đỗ gần bét. Nhưng chẳng sao. Nay mình đã là học sinh trường Bưởi rồi!
Giấc mộng của tuổi thơ đã thành sự thực!".
Đồng môn Nguyễn Tri Phương thi đậu vào trường Chu Văn An hồi trường
ở Cửa Bắc Hà Nội đã cảm thấy quá hạnh phúc. Trong khi chờ ngày nhập
học, nhà ở tận Yên Thái, cách Cửa Bắc mười hai cây số mà cứ thấy mẹ
quên sai bảo trong vòng nửa giờ là bỏ nhà ra đi nhảy tầu điện trốn
vé hoặc có khi cuốc bộ để "chỉ trèo vào trường ngồi trên nóc
hầm trú ẩn năm mươi phút ngắm sân trường vắng, ngắm ngôi nhà nghiêm,
ngắm thôi rồi trèo tường ra."
Ba thế hệ khác nhau nhưng tâm trạng như chỉ có một. Ngày nhập học
bước qua cổng trường chính thức nhập tịch dân Chu Văn An là hòa mình
vào một tập thể có nhiều sắc thái lạ lùng. Những sắc thái làm nên
cái gọi là Chu Văn An tính. Chu Văn An tính là gì nhỉ?
Thầy Nguyễn văn Phú đã viết về Chu Văn An tính của giáo sư Chu Văn
An như sau: " Tập hợp giáo sư Chu Văn An cho tôi thấy một điều
là làm nhà giáo không bắt buộc phải cứng nhắc, cổ cồn nhưng đúng lúc
vẫn có thể và cần phóng khoáng, cởi mở, vui tươi. Vào việc thì "
Comme il faut", nhưng sống thì nên thoải mái, cởi mở. Có tí gì
nhà nho cổ điển ở trong song phải pha chút 'thơ túi rượu bầu'."
Chu văn An tính nơi thầy thì như vậy. Còn Chu Văn An tính nơi lũ
học trò chúng tôi thì sao? Đó là một cái gì bàng bạc khó phanh phui
rành mạch. Nó ăn sâu vào lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử, cách ăn
nói của những người đã lê đũng quần nơi Chu Văn An. Nó rất...Chu Văn
An.
Trên những nẻo đường đời sau khi rời trường cũ, từ những ngày theo
học Đại Học tới lúc ra đời đi làm, khi lang thang trên đường phố hoặc
ngay trong trại tù cộng sản, tôi đã từng lúc bắt gặp những khuôn mặt
búng ra chất Chu Văn An. Hỏi tới thì y như rằng đúng dân Chu Văn An
thật. Hình như mỗi học sinh Chu Văn An đều thấm cái Chu Văn An tính
trong người và không thể dấu diếm không để lộ ra mặt.
Chu Văn An tính phải chăng là nêu cao tinh thần " Uy lực không
thể khuất phục" của ông tổ Chu Văn An như đồng môn Nguyễn Viết
Ninh đã viết: "Họ là những người bạn đã từng theo học ở Bưởi,
ở Chu Văn An đã ngạo nghễ đối mặt với kẻ thù chuyên chính vô sản,
coi thường chết chóc, hành hạ tra tấn, tù đày để nói lên tiếng nói
của tự do dân chủ".
Chu Văn An tính phải chăng là niềm tự hào được dẫn dắt bởi những
vị hiệu trưởng nổi danh như thầy Hoàng Cơ Nghị, Nguyễn Gia Tường,
Dương Quảng Hàm, Mai Văn Phương, Đỗ văn Hoán, Phạm xuân Độ ngoài Bắc
và Vũ Ngô Xán, Trần văn Việt, Nguyễn hữu Văn, Đàm xuân Thiều, Bùi
đình Tấn, Dương minh Kính, Nguyễn xuân Quế trong Nam như đồng môn
Đào hữu Châu đã nhắc lại.
Chu văn An tính phải chăng là sự trân trọng công ơn dạy dỗ của thầy
mà tới ngày nay các đồng môn của tôi vẫn còn nhắc lại với niềm hãnh
diện và thân thương.
Đồng môn Nguyễn đức An còn nhớ thầy Bùi đình Tấn ưa ngồi lên mép
bàn, vừa nói vừa gảy móng tay, vừa cười tươi như hoa. Thầy Bùi đình
Tuyên luôn luôn đòi hỏi học trò ăn nói dõng dạc, rõ ràng. Anh nào
dở thói " ăn nói lỗ mỗ" õng ẹo như con gái là bị thầy mắng:
này anh kia, lớn rồi, có phúc đã có con, liệu mà ăn nói cho dõng dạc,
ăn nói lỗ mỗ như thế người ta cười cho. Thầy Vũ Hoàng Chương cho cuộc
đời hôm nay chỉ là cõi tạm. Trên cõi tạm này là đêm hoa đăng bất tận.
Thầy Vũ Khắc Khoan cho con người đã sinh ra phải có danh gì với núi
sông, đừng đi vào con đường tầm thường nhàm chán."
Đồng môn Lê Thế Hiển nhắc về các thầy cũ với giọng trìu mến thương
yêu: thầy Đào văn Dương dạy toán lúc nào cũng nghiêm nghị, cù không
cười nhưng lại rất bao dung khích lệ. Thầy Nguyễn ngọc Quỳnh dạy Vạn
Vật vẽ hình hoa lá trên bảng tô điểm bằng phấn màu đẹp ơi là đẹp,
lời giảng cứ đều đều trơn tru nếu dò vào sách của thầy thì thấy không
sót một dấu chấm, dấu phẩy. Thầy Trần Đình Ý dạy Pháp Văn lúc nào
cũng tươm tất nghiêm chỉnh trong bộ complet màu xám tro, chiếc mũ
phớt, mỗi lần qua ngã tư lại xuống xe dắt xe đạp sang đường. Thầy
Lộc dạy Anh Văn mỗi lần lên lớp mang cả núi sách trong chiếc cặp da
cũ vác oằn một bên hông.
Chu Văn An tính phải chăng là tinh thần hiếu học mà giáo sư Nguyễn
văn Phú không ngần ngại viết: " Phải thành thực mà tuyên bố rằng
học sinh Chu Văn An học giỏi. Nếu không muốn chạm đến tính khiêm tốn
của mọi người thì nói "trên trung bình".
Chu Văn An tính phải chăng là cái ngông nghênh của những tên coi
trời bằng vung. Đồng môn LTP còn kẹt lại ở quê nhà, đang sống những
ngày nhọc nhằn khổ nhục mà vẫn viết thư qua cho bạn bè bên này bằng
cái giọng Chu văn An ngông nghênh: " Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp
vì trời sẽ phải lo cho mình, nếu không kiếp sau tụi mình sẽ không
chịu làm người nữa. Loài người mà không có tụi mình thì chắc cũng
buồn, do đó trời phải lo. "Làm cây thông đứng giữa trời mà reo"
như thuở nhỏ mình từng mơ "viết ngang trời ba chữ Chu văn An".
Trường này ở Saigon đã được giải thể rồi vì có lẽ không có học sinh
vui như mình..".
Chu văn An tính phải chăng là rủ nhau đạp xe tới các cổng trường
Trưng Vương, Gia Long, Marie Curie, Saint Paul, Couvent des Oiseaux
săn những nàng bướm muôn màu muôn sắc như đồng môn Trần Mộng Lâm đã
nhắc tới trong bài "Thời để thương, thời để nhớ!".
Chu văn An tính phải chăng là cái hào hùng của đoàn biểu tình bằng
xe đạp với khí thế hừng hực của tuổi trẻ ào ào xông vào khách sạn
Majestic và Galilénie tìm đánh Việt Cộng vào năm 1955.
Chu văn An tính phải chăng nằm trong cái tréo cẳng ngỗng của một đội
túc cầu có nhà dìu dắt là một nhà văn, giáo sư Vũ Khắc Khoan, nên
" kết quả khi lên khi xuống y hệt nguồn cảm hứng của giáo sư
dìu dắt đoàn cầu" như đồng môn Từ Uyên đã kể lại.
Chu văn An tính phải chăng là màn vũ Trấn Thủ Lưu Đồn vừa vui tươi
hài hước vừa xót xa ngậm ngùi đã được đóng dấu ấn là màn vũ của Chu
văn An.
Chu văn An tính phải chăng là cái tinh nghịch như đặt biệt danh cho
các thầy như thầy Vũ Khắc Khoan nghiêm khắc có đôi mắt to và sắc sảo
được đặt biệt danh " Cú Vọ", thầy Bùi Đình Tuyên dạy Vạn
Vật hay kể chuyện nhảm nhí được đặt là Tề Tuyên, thầy Lộc dạy Anh
Văn người khẳng khiu nhưng luôn luôn làm ra vẻ mạnh bạo được đặt là
"Đô đốc Lộc", thầy giám thị Tự đi giày tây khua lóc cóc
inh ỏi được đặt là "Tây gỗ"...Hoặc lợi dụng lúc đông người
chen lấn lên xuống cầu thang để xoa cái đầu hói của thầy giám thị
Vang, nhại dáng đi lẻo khẻo của thầy "Thảo Nam Sơn" rồi
cùng cười hô hố với nhau như đồng môn Lê Thế Hiển đã nhắc lại.
Nhưng màn tinh nghịch "lịch sử" là màn treo nguyên chiếc
xe đạp của thầy Trần Đình Ý, một người quí xe đạp hơn quí bản thân
mình, lên đỉnh cột cờ giữa ban ngày ban mặt làm cả trường thích thú
và vang danh tới nhiều thế hệ học sinh sau này. Mãi tới bây giờ đã
gần bốn mươi năm qua mà thầy Nguyễn văn Phú vẫn rao tìm thủ phạm vụ
này trong Đặc san Bưởi- Chu văn An trên tay quí vị và các bạn.
Chu Văn An tính, đó là cái mẫu số chung làm cho dân Chu văn An có
một cá tính riêng nối kết với trường xưa, thầy cũ.
Phải yêu trường, quí thầy lắm, đồng môn Lê Thế Hiển mới có thể tâm
sự với chúng ta như thế này: "Trong chiếc ví da cũ của mình mang
trong người mấy chục năm nay, mình vẫn giữ được tấm thẻ học sinh niên
khóa 1958-1959, năm mình học lớp Đệ Nhất B5, có chữ ký của thầy Hiệu
Trưởng Trần văn Việt và dấu nổi của nhà trường. Trong đời mình đã
có bao nhiêu tấm thẻ như thế, nhưng qua các biến cố của cuộc sống,
vì lý do này lý do khác các thẻ ấy đã mất đi, riêng tấm thẻ học sinh
ấy vẫn theo mình tới tận ngày nay, tới tận vùng Đông Bắc Mỹ này. Nó
cũng theo mình từ Nam ra Bắc qua nhiều trại cải tạo trong suốt bảy
năm trường gian khổ tưởng như không còn ngày về. Ngọn lửa hồng in
ngoài tấm thẻ lúc nào cũng lung linh như rực cháy sưởi ấm lòng mình
trong những ngày đen tối nhất của cuộc đời".
Đêm nay, phải chăng ngọn lửa hồng in ngoài bìa to Đặc San đã lung
linh mời gọi những đứa con của trường Bưởi-Chu văn An ngồi lại với
nhau nơi đây. Những mái đầu bạc phơ xen lẫn với những mái đầu tóc
trắng nhiều hơn tóc đen. Chúng ta đã đi gần hết nẻo đường đời, đã
nếm đủ vinh nhục, đã chịu đủ đắng cay. Vậy mà cách xa quê hương cả
vạn dặm, trường xưa nay đã bị cộng sản xóa tên, cuộc sống nơi xứ ngưoi
nhiều phiền muộn chua chát, đêm nay chúng ta vẫn còn đủ nhiệt tình
tìm tới với nhau nhắc lại những ngày Chu văn An cũ.
Tôi muốn nhân cái không khí đày ắp kỷ niệm này để nhắc lại nơi đây
ba đồng môn của chúng ta đã sống và chết xứng đáng với tinh thần "uy
lực không thể khuất phục" của vị tổ Chu văn An của chúng ta.
Đó là anh Hà Ngọc Lương, người đã được đồng môn Nguyễn Ngọc Tính
kể lại cái chết oai hùng trong bài: "Hà Ngọc Lương, câu chuyện
của một người tuẫn quốc" trong Đặc San của chúng ta. Anh là học
sinh Chu Văn An khóa 1957, tốt nghiệp thủ khoa khoá 9 trường Sĩ Quan
Hải Quân. Năm 1975, anh Lương mang cấp bậc Trung Tá và đang giữ chức
Vụ Trưởng vụ Văn Hóa tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
Khi cộng quân tràn vào uy hiếp trường, anh đã chống trả tới phút chót
và khi trường bị giặc tràn ngập, anh đã chọn một quyết định phi thường
là tuẫn tiết cùng vợ và ba con.
Hai người bạn khác mà tôi muốn nhắc tới hôm nay là hai người ngồi
cùng bàn với tôi trong lớp Đệ Nhị C1 niên khóa 1956-1957, anh Nguyễn
Thiệu Hùng tức nhà thơ Mai Trung Tĩnh và anh Lê Đức Vượng tức nhà
thơ Vương Đức Lệ. Hai anh đã tham gia vào phong trào "Diễn Đàn
Tự Do" của giáo sư Đoàn Viết Hoạt và giờ phút này vẫn còn đang
bị giam cầm trong ngục tù cộng sản như những tù nhân của lương tâm.
Chí bất khuất, lòng can đảm của các đồng môn trên đây của chúng ta,
theo tôi nghĩ, chính là sự thăng hoa của Chu văn An tính.
Xin cám ơn quí vị và các bạn.
Montreal, Thu 1992 |