35 năm nhạc Từ Công Phụng

Đọc "Mùa Gặt Giữa Hư Vô" của Dương Kiền

Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000

Giới thiệu tập truyện "Dì Thu" của Trang Châu

Với Lê Uyên & Phương

Nguyễn Đông Ngạc, một đi...

Chút kỷ niệm với Văn Học

Lớp người hẩm hiu

Quê hương, tình yêu trong thơ Luân Hoán

Thơ Bích Xuân

Nhắc nhớ Chu Văn An

Cái tâm trong nhạc

Luân Hoán - Thường ngày

50 năm Chu Văn An

Nguyễn Tuấn Hoàng - Hoa cuối mùa

Biết đâu đấy

Thầy Chương

Nhẩy Dù

Với Lê Uyên Phương và ĐàLạt

Yến

Kỳ

Hệ Lụy

Khi đến San Jose

Phụng, trở lại với đời

Đọc "Đất Thiên Thai" của Trà Lũ

Lệ Trăng

Hân

Tiễn Nguyễn Mộng Giác

Phan Ni Tấn,, người bắt cái đẹp

Huỳnh Công Ánh, người vượt thoát

Hoàng

Viết cho Nghiêm

Hoàng Xuân Sơn, rất Huế

Võ Kỳ Điền, nối lại cuộc chơi

Ghi vội khi đọc "Pulau Bidong" của Võ Kỳ Điền

Những tháng ngày buồn

Đọc "Đứng Ngẩn Trông Vời" của Hoàng Quân

Hai lần gặp Võ Phiến

Biết đâu đấy 30-4

Một chuyến đi lỡ

Một năm Nguyễn Xuân Hoàng

Phan Ni Tấn và Có Một Thời Ở Quê Hương Tôi

Thành Tôn, một đời mê sách

Viết Cho Chu-Văn-An

Du Tử Lê, rất riêng

Tô Thùy Yên, nhìn gần

Bùi Quyền, đã sống như thế

"Trăm cây nghìn cành" của nhà thơ Triều Hoa Đại

Đọc "Bãi sậy chân cầu" của Khánh Trường

Phạm Xuân Đài và "Đi, Đọc và Viết"

Hà Túc Đạo, người của số mạng

Nhớ Thẩm Dương

Vĩnh biệt Lệ Thu

Đọc "Bốn Biển Là Nhà" của Nguyễn Lê Hồng Hưng

Đọc "Thành Tôn, một đời thắp tình"

Hồ Đình Nghiêm, Tập 2

Giới thiệu "Tuyển Tập Thơ Đức Phổ"

Đọc "Ăn mà không chơi" của Đỗ Duy Ngọc

Khuôn mặt văn trong
"Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000"

Kính thưa quý vị,
Thưa các bạn,

Anh Trang Châu vừa thưa chuyện với quý vị và các bạn về 30 tác giả làm thơ trong Tuyển Tập Thơ Văn Hải Ngoại Năm 2000. Tôi nghĩ anh Trang Châu là người có phước. Bởi vì dân tộc Việt Nam vốn được tiếng là một dân tộc ham mê thơ phú, quý vị ngồi đây vị nào mà trong bụng chẳng nằm lòng vài câu thơ, lận lưng ít câu Kiều, ê a được mấy vần ca dao. Vậy nên những câu thơ trong Tuyển Tập mà anh Trang Châu vừa nhắc chắc cũng như những giọt mưa đổ xuống một vùng đất xốp sẵn sàng vươn ra đón nhận.

Vậy mà, trong bài nhận định duy nhất được in trong những trang đầu của Tuyển Tập, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc đã cho là chính cái đặc tính yêu thơ của dân tộc Việt Nam là biểu hiện của một dân tộc mù chữ. Trong bài Văn Học Trong Một Nước Mù Chữ, nhà phê bình tài hoa họ Nguyễn này, bằng một lối lý luận chặt chẽ, đã minh chứng đặc tính yêu thơ của dân tộc ta là di sản tội nghiệp của nền văn chương truyền khẩu. Mà văn chương truyền khẩu là một trong những biểu hiện của sự mù chữ.

Khi nhận được bản thảo của Nguyễn Hưng Quốc, chúng tôi đã nói giỡn với nhau, 67 người viết gần 700 trang sách mà dám bảo là mù chữ! Vậy 67 tác giả con dân của một nước mù chữ đã viết những gì trong Tuyển Tập? 30 người làm thơ đã được anh Trang Châu vừa giới thiệu với quý vị, tôi xin lướt qua không nhắc lại, bỏ qua luôn người "mù chữ" Nguyễn Hưng Quốc, còn lại 36 người viết văn xuôi.

Trong 36 nhà văn này, có 9 nhà văn nữ. Mà trong 9 nhà văn nữ thì có tới 7 người viết truyện tình. Tình khổ đau của Hoàng Du Thụy, tình dang dở đứt đoạn của Hoàng Nga, tình trốn chạy của một người đàn bà hai lần sang sông mà vẫn không biết vị ngọt tình yêu của Lê Minh Hà, tình bất thường của một thiếu nữ yêu tu sĩ của Lê Thị Thấm Vân, tình học trò yêu thày giáo của Nguyễn Thị Hoàng Bắc, tình yêu dành cho người đang bị tù giam của Nguyễn Thị Thanh Bình. Tất cả 6 truyện tình chẳng có thứ tình nào tròn trịa vẹn toàn cả. Nói như Hoàng Nga, tình nào cũng "sút gọng gãy cán". Phải chăng vì những mối tình tròn trịa, hạnh phúc, người ta giữ riêng cho mình và chỉ những mối tình trắc trở người ta mới chia sớt cho mọi người. Trong cuộc sống, tôi có một kinh nghiệm tương tự. Tôi chẳng thấy ai mở miệng nói mình giàu có mà chỉ gặp toàn những người than thiếu tiền!

Chuyện tình thứ 7 của một nhà văn nữ, tôi muốn tách riêng ra vì truyện Ám Thị của Phạm Thị Hoài đã nghiêng khá xa sang lãnh vực tình dục. Một truyện tình dục sắc sảo, nghe như truyện tình dục nhưng cũng như nghe được bộ mặt mù lòa của cuộc sống. Cũng vậy, nhân vật truyện của Mai Kim Ngọc, một ông già đã ăn nằm với cả trăm người đàn bà, vào giờ phút cuối đời, trên giường bệnh trong bệnh viện, còn véo đít cô y tá Mỹ, nhưng vẫn cứ băn khoăn về cô gái điếm trên sông Hương đã cứu ông khỏi chết vì thượng mã phong nhưng lại bị ông trình cảnh sát vì nghi đã lấy cắp ví tiền của ông. Trước khi nhắm mắt, ông già còn trăng trối với anh con rể: ỏõ Anh gắng tìm Luyến cho bác. Luyến có cái sẹo nơi vú phải, khoảng chín giờ".

Ngoài Mai Kim Ngọc, 2 nhà văn nam khác viết truyện tình là Trần Doãn Nho và Hồ Đình Nghiêm. Tình trong truyện của Trần Doãn Nho bảng lảng bâng quơ. Tình trong truyện của Hồ Đình Nghiêm ngục ngặt dật dờ.
Tâm Thanh đi hẳn qua một thứ tình khác, tình vợ chồng. Trong khi Thế Uyên và Song Thao nói tới tình bạn. Ở Song Thao, đó là tình bạn giữa ba người từ hồi còn mài đũng quần trong trường tiểu học tới lúc cuộc đời đã xế bóng. Ở Thế Uyên, đó là tình bạn với một mục sư Tin Lành từ trong trại cải tạo tới khi tái ngộ trên đất Mỹ.

Trại cải tạo, một khổ nạn của những người con đất Việt trong tay những người có lẽ không còn là bàu là bí trong cùng một giàn, đã được Lâm Chương, Nguyễn Mộng Giác, Phan Thị Trọng Tuyến đề cập tới. Những người tù cải tạo trong truyện của Lâm Chương dồn tình thương vào một con mèo do một người tù bắt được đem về nuôi. Tình người và vật còn vướng víu trong người cựu tù nhân tới những ngày sống trên đất Mỹ. Mỗi lần ngồi nghĩ tới chuyện xưa, người cựu tù nhân lại lẩm bẩm như nói một mình khiến bày con của ông phải có ý kiến: " Những người tù cải tạo ở Việt Nam, tinh thần bị khủng hoảng, tâm trí bất bình thường. Hay là con đưa ba tới bác sĩ tâm thần khám thử xem sao!" Nguyễn Mộng Giác lại tìm thấy tình người trong một chú vệ binh trẻ gác tù. Cái tình người mà anh ta phải giấu giếm như một cái tội. Điều thiện trong một thể chế lấy hận thù làm cứu cánh là một thứ xa xỉ phải nhét sâu vào túi quần đừng để ai nhìn thấy. Với Phan Thị Trọng Tuyến, người tù cải tạo trở về mà cuộc sống cũng nhọc nhằn như còn ở trong tù. Mất nhà cửa, mất vợ con, mất tương lai, mất cả cuộc đời. Người tù lang thang ngoài đường phố như người mất trí và đã tự kết thúc đời mình bằng cách nhào vào xe trên đường cho cán chết tươi.

Đối với những người tù cải tạo, cuộc chiến chưa tàn. Đối với một số người viết ở hải ngoại, ám ảnh về cuộc chiến vẫn tươi rói. Kinh Dương Vương vẫn còn cái hãi hùng trong vùng xôi đậu. Trần Hoài Thư vẫn còn đi hành quân. Thảo Trường sống trong một con hẻm cụt, hàng xóm Mỹ trắng có, Mỹ đen có, vậy mà tâm trí vẫn hằn in chiến thuật hành quân. "Ở đây mà tụi nó chốt ngoài đầu ngõ thì hết đường thoát".

Chúng ta sống ở bên đây mà mà như ai cũng vẫn còn trong người nỗi ám ảnh chung của người Việt trong thời nhiễu loạn. Một mảnh sống nhục nhã, một mảnh thời gian xót xa, một mảnh hoại hủy trong tâm hồn hay những hãi hùng của những lần vượt biển. Phan Nhật Nam vẫn đậm trong những con chữ viết về tản cư, di cư, vượt biên, những đổi dời khốn nạn của một đời người làm con dân đất Việt. Nguyễn Quốc Trụ, Võ Kỳ Điền vẫn hằn sâu trong tim những ngày sống khắc khoải lo âu trong trại tị nạn. Nguyễn Quý Đức mang tâm trạng của một người trẻ, quê hương chỉ là bóng mờ trong trí nhớ, trở lại quê nhà chỉ thấy cái lạc lõng của một người Việt không hẳn là người Việt.

Người Việt chúng ta ngày nay, sống trong nước thì tủi nhục, sống tha hương thì khắc khoải. Hà Thúc Sinh, giữa lúc đất trời sang mùa, băn khoăn hỏi đâu là tín hiệu của mùa xuân. Đó là sự xuất hiện của lũ chim cardinal hay robin? Vậy nơi quê nhà có loài chim nào báo hiệu cho mùa xuân? Anh nhớ tới bày chim Lá Rụng bay thành một tấm thảm thần khổng lồ óng bạc báo xuân về trong một lần đi tàu tuần ở miền Tây. Cứ nhớ nhớ nhung nhung như vậy làm vợ thắc mắc: " Bao giờ anh mới để cho anh được thư thả tâm hồn? " Anh bùi ngùi trả lời: "Quen tai biến mất rồi, từ ấu thơ! " Làm người Việt là làm bạn với tai biến. Tai biến đến từ hai anh em cùng cha khác mẹ, sống ngăn cách trong hai miền giới tuyến, gặp lại nhau ở Mỹ bối rối trong thờ ơ với nhau như trong truyện của Trần Long Hồ. Tai biến trong tâm hồn lạc lõng của một người lưu vong trong truyện của Hoàng Khởi Phong. Cả ở bên đây, cả ở bên kia chỉ có chỗ trú ẩn, mãi mãi không có cái gọi là nhà.

Quê hương như đồng nghĩa với khổ đau nhưng quê hương vẫn là vòng tay mẹ hiền hòa dịu ngọt. Nguyễn Xuân Hoàng vẫn thiết tha với Huế, nơi cố đô cổ kính rêu phong nhưng cũng là nơi ông đã để con tim ở lại. Tưởng Năng Tiến thiết tha với một thứ thực tiễn hơn, mì Quảng. Ông hết lời với món ăn đặc thù nơi quê hương ông nhưng cũng bẽ bàng với tô mì Quảng được dọn trong một nhà hàng sang trọng ở San Francisco. Ăn vào mới hiểu thế nào là nỗi thất vọng đắng cay của kẻ "yêu lại một người yêu thất tiết".

Cuộc đời vẫn luôn bắt ta nuốt nỗi thất vọng đắng cay như vậy. Hoàng Chính ngỡ ngàng với ông già thương bày chim ngoài công viên như con, gọi là "My children", liệng bánh mì cho ăn mỗi ngày, nhưng chỉ là để dụ chim đến bẻ cổ dấu vào trong áo mang về làm thịt. Nguyễn Sao Mai tủi cái tủi nhục của những người nghèo. Hồ Trường An khổ nỗi khổ của một anh chàng trời bắt khờ. Nguyễn Ngọc Ngạn kể chuyện ma mà nghe như chuyện đắng cay của đời. Kiệt Tấn cay đắng với bước đi của thời gian, bỏ ông lại thành một người già, trở lại Xóm Học của một thời yêu đương ra rít, với đứa con nay đã lớn khôn. Chồn gối, mỏi chân, ngồi trên ghế đá chờ con mua kem giải khát, Kiệt Tấn đã than một cách hết sức Kiệt Tấn: "Hồi nào ba xếp hàng chờ mua cà rem cho con bây giờ tới phiên con xếp hàng chờ mua cà rem cho ba". Miên lại thắc mắc không hiểu nổi một bà cụ cho vay ăn lời cắt cổ đồng thời vẫn ăn chay niệm Phật như một người tu hành.

Có những Phật Tử mong lấy vải thưa che mắt thánh, nhưng cũng có những Phật Tử thuần thành trút tất cả tâm não vào đường đi của Đức Thích Ca. Như Phan Tấn Hải đã nhập tâm vào Thâm Tín Nhân Quả nghĩa là phải Tin Sâu Vào Nhân Quả. Như Ngô Nguyên Dũng đã mang hương vị phảng phất mùi thiền vào Tuyển Tập ra mắt ngày hôm nay.

Kính thưa quý vị,
Thưa các bạn,

Tôi vừa làm một công việc hết sức vội vàng nên chắc mang rất nhiều thiếu sót, là lược sơ những gì mà 37 tác giả viết văn xuôi trong Tuyển Tập đề cập tới. Tôi chỉ như đếm được những con thuyền đậu trên bến mà không bắt được những cánh buồm no gió rong ruổi trên sông nước. Bởi vì tôi chỉ thưa được với quý vị về đề tài viết của mỗi tác giả mà không trình bày được những chở chuyên, những tinh túy, những thần sắc của các áng văn trong Tuyển Tập.

Mỗi truyện được viết ra đều có cái hồn của nó mà hình thức, đề tài chỉ là cái xác. Nhìn ra cái xác thì dễ, bắt được cái hồn là chuyện chẳng dễ. Chuyện dễ thì tôi đã làm, chuyện chẳng dễ tôi xin dành cho quý vị.

Chỉ có tự mình đăm chiêu vào các con chữ, ngâm hồn vào những trang giấy, quý vị mới cảm được con người của mỗi tác giả, quý vị mới thấm được cách viết của mỗi tác giả. Cái mà người ta thường gọi là dấu ấn, là đặc điểm, là phong cách, là văn phong của mỗi người viết. Cái làm cho Hà Thúc Sinh là Hà Thúc Sinh, Miên là Miên, Nguyễn Mộng Giác là Nguyễn Mộng Giác, Phạm Thị Hoài là Phạm Thị Hoài, Ngô nguyên Dũng là Ngô Nguyên Dũng....

Cái thần sắc đó chắc quý vị sẽ dễ dàng bắt được vì Tuyển Tập bao gồm những bài viết do mỗi tác giả tự chọn và gửi đến cho chúng tôi. Đời văn của mỗi tác giả có thể dài có thể ngắn. Là ba bốn chục năm hoặc mới năm bảy năm. Nhưng những gì mà chúng tôi gửi đến quý vị là những đỉnh cao trong mỗi đời văn này. Nếu gọi văn chương là món ăn tinh thần thì những gì xuất hiện trong Tuyển Tập này là sơn hào hải vị. Trên bàn ăn có tới 67 món sơn hào hải vị thì không thể không gọi là một bữa ăn thịnh soạn.

Bữa ăn đó đã được dọn ra đãi quý vị bên kia cánh cửa hội trường. Chúc quý vị có được một bữa ăn ngon.

Xin kính chào và cảm ơn quý vị và các bạn.