Bia trên mộ Mai Thảo là một bài thơ. Bài thơ này đã được in trong tập thơ duy nhất của nhà văn Mai Thảo “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” do nhà Văn Khoa xuất bản vào năm 1989, 11 năm trước khi ông nằm xuống. Mai Thảo thích thơ, thuộc rất nhiều thơ, vậy mà trong suốt văn nghiệp của ông, ông hầu như bỏ thơ. Thơ ông cô đọng, dễ hiểu, dễ thấm và dễ đi vào mỗi đời người chúng ta.
Trái đất có triệu điều không hiểu,
Càng hiểu không ra lúc cuối đời,
Chẳng sao, khi đã nằm trong đất,
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Bia mộ nhà thơ Nguyên Sa dĩ nhiên cũng phải thơ:
Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?
Nhà thơ luôn đề cập đến siêu nhiên và tôn giáo Hàn Mặc Tử, lạ thay, trên mộ lại không có một bài thơ nào. Ông mất vào tháng 11 năm 1940 trong khi nằm điều trị bệnh phong cùi tại làng cùi Quy Hòa và được chôn cất ngay trong nghĩa địa của làng. Ngôi mộ đầu tiên này chỉ là một nấm đất nhỏ nằm theo thứ tự, cùng kích thước với hàng trăm ngôi mộ của các bệnh nhân khác. Mãi tới ngày 13 tháng 1 năm 1959, gia đình và người bạn thân, thi sĩ Quách Tấn, mới cải táng mang ra chôn cất tại Ghềnh Ráng. Đầu thập niên 1960, trong một lần ra Quy Nhơn, tôi đã tới viếng ngôi mộ mới được cải táng này. Mộ nằm ở một vị trí rất đẹp trên núi cao có thể nhìn xuống toàn cảnh thành phố Quy Nhơn bên bờ biển. Tôi đã có ý tìm nhưng không thấy một câu thơ nào nơi mộ phần mới này. Nơi mộ phần cũ của Hàn Mặc Tử, năm 1991, cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và một số nhạc sĩ khác đã xây dựng một đài tưởng niệm Hàn Mặc Tử. Giờ thì mới có thơ. Thơ được khắc trên các phiến đá theo kiểu thư họa. Chính giữa đài tưởng niệm có hình tượng một cây viết và cây thánh giá dựng trên cuốn thơ. Nhìn vào những hình chụp, tôi chỉ đọc được hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ trên một phiến đá: người đi một nửa hồn tôi mất / một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Mộ nhà thơ Quách Tấn, bạn của Hàn Mặc Tử, thì lại có thơ:
Nghìn xưa không còn nữa
Nghìn sau rồi cũng không
Phảng phất bờ trăng rạng
Hương Ưu Đàm trổ bông
Mộ nhà thơ Phùng Quán có khắc 9 câu thơ trích trong bài thơ đã làm nên tên tuổi ông, bài “Lời Mẹ Dặn”:
Con ơi một người chân thật!
Thấy vui muốn cười cứ cười!
Thấy buồn muốn khóc là khóc!
Yêu ai cứ bảo là yêu,
Ghét ai cứ bảo là ghét!
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét!
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói ghét thành yêu!
Mộ nhà thơ Tú Xương dĩ nhiên cũng phải thơ như ai. Nhưng thơ trên mộ nhà thơ trào phúng này lại là chuyện cười ra nước mắt. Mộ nhà thơ nằm bên hồ Vị Xuyên, giữa thành phố Nam Định. Tấm bia trên mộ có thơ cả ở phía trước lẫn phía sau. Phía trước dĩ nhiên là thơ của thi sĩ đất non Côi sông Vị. Bia mới được sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Nam Định tu bổ vào năm 1991. Hai câu kết trong bài thơ Sông Lấp nổi tiếng được khắc bằng cả chữ Nôm lẫn chữ quốc ngữ: Vẳng nghe tiếng ếch bên tai / Giật mình lại tưởng tiếng ai gọi đò. Trước 1975, tại miền Nam, thơ của Tú Xương được giảng dạy rất kỹ càng trong chương trình Việt văn bậc trung học. Cho tới giờ, tôi còn thuộc nằm lòng hai câu thơ này. Vậy nên đọc lên đã thấy khó chịu. Nguyên bản của câu thứ nhất phải là: Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Thơ cụ tú Vị Xuyên đã bị sửa chữ Đêm thành chữ Vẳng! Nhưng cái sai của câu thứ hai mới tai hại. Chính ra phải là: Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Chữ còn rất đắt đã bị đổi thành lại khiến câu thơ trở nên quá tầm thường và mất hết ý nghĩa.
Mặt sau của bia khắc một đôi câu đối được cho là của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến viếng cụ Tú Xương: Kìa ai chín suối xương không nát / Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn. Cụ Nguyễn Khuyến hơn cụ Trần Tế Xương 35 tuổi nhưng mất sau cụ Tú Xương hai năm.Cụ Trần mất năm 1907 trong khi cụ Nguyễn mất năm 1909. Thực ra đây không phải đôi câu đối của cụ Nguyễn Khuyến mà là của cụ Đoàn Triển. Nguyên bản cũng không đúng như ghi trên bia mà là: Nào ai chín suối xương không nát / Có nhẽ trăm năm miệng vẫn còn. Chỉ có hai câu thơ và một cặp câu đối, người ta đã vạch ra được từng ấy cái sai. Cái…văn hóa của Sở Văn Hóa và Thông Tin tỉnh Nam Định, sinh quán của cụ Tú Xương, chẳng biết nó ra sao!
Thơ trên bia mộ chẳng phải là độc quyền của các nhà thơ, dân ta là một dân tộc sính thơ nên mồ mả tràn đầy văn vần. Tìm trong bất cứ nghĩa địa nào có lẽ chúng ta cũng bắt gặp rải rác trên một vài ngôi mộ những bài gọi là thơ. Nhưng một nghĩa địa mà mộ nào cũng có thơ, có mộ có tới tám bài thơ là một…kỳ tích. Đó là nghĩa địa Cực Lạc Thái Bình nằm ở xã Bàu Lăng, ngay dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh. Điều làm người ta ngạc nhiên đây không phải là một nghĩa địa nhỏ mà có tới 60 ngàn ngôi mộ! Tính tối thiểu cũng có 60 ngàn bài thơ! Thơ đâu ra mà lạm phát vậy?
Ông Huỳnh Cẩm Tú, Trưởng Ban Quản Lý khu nghĩa địa, cho biết là khu nghĩa địa này đã có từ năm 1927. Khởi đầu chỉ có vài ba ngôi mộ. Tới năm 1972, khu đất rộng 58 ha này mới biến thành nghĩa địa của các tín đồ đạo Cao Đài Hòa Hảo. Bây giờ thì người không theo đạo Cao Đài cũng được chôn cất tại đây. Khoảng trên hai chục năm trước có một ông biết làm thơ sống trong khu vực này. Ông này rất yêu thương vợ. Khi vợ chết và được chôn cất trong nghĩa địa, chiều nào ông cũng ra mộ vợ đọc thơ cho vợ nghe. Rồi ông lấy sơn viết thơ lên mộ vợ. Nhiều người thấy vậy mới bắt chước.
Một giai thoại khác nghe xúc động hơn. Một ông chồng vì nghi vợ ngoại tình nên buồn chán tự tử chết. Gia đình nhà chồng không cho người vợ để tang chồng. Đêm đến, người vợ lẻn tới mộ, viết lên mộ chồng hai câu:
Gió đưa cây cải về trời / Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Tác giả phần lớn những bài thơ viết lên mộ là ông Phạm văn Lộc, quản trang nghĩa địa trong gấn bốn chục năm. Ông là người viết và cung cấp thơ khắc trên mộ. Thực ra ông chỉ làm công việc cải biên những câu ca dao, hò vè, thơ Kiều hoặc Lục Vân Tiên sao cho hợp với từng hoàn cảnh. Khi nhu cầu càng ngày càng cao, thơ được mặc đồng phục. Ban quản lý nghĩa trang sưu tập thơ văn, đóng lại thành từng tập theo từng chủ đề như: con khóc cha mẹ, vợ khóc chồng hoặc ngược lại, cha mẹ khóc con, con khóc cha mẹ, mỗi chủ đề có khoảng từ 200 đến 300 bài. Thân chủ cứ việc mở…cẩm nang, thấy thích bài nào thì chọn thuê thợ khắc trên bia. Thơ có nguồn gốc dân gian như vậy nên phần lớn được làm theo thể lục bát, song thất lục bát hoặc thơ bảy chữ. Tôi chép lại vài bài mẫu:
Tình nghĩa vợ chồng mấy mươi năm
Ông đi, tôi ở lệ tuôn dầm
Năm canh thương nhớ lòng quặn thắt
Vĩnh biệt từ đây nghĩa vợ chồng
Đó là thơ vợ khóc chồng. Đây là thơ cha mẹ khóc con:
Thương hoa chưa nở vội tàn
Phải chăng vì nợ trần gian hết rồi?
Mẹ cha đau lắm con ơi!
Gia đình nội ngoại cũng rơi giọt sầu.
Có lẽ chỉ có dân Việt ta mới thơ tràn lan như vậy. Bia mộ không chỉ đơn điệu có một kiểu khắc thơ. Người ta còn nhiều trò khác. Chắc nhiều người còn nhớ tới danh ca Whitney Houston vừa qua đời vào ngày 11 tháng 2 năm 2012. Bà được chôn cất tại nghĩa trang Fairview ở Westfield, tiểu bang New Jersey. Một năm sau, bia mộ của nữ danh ca sống trên đời chỉ vỏn vẹn có 48 năm mới hoàn tất. Ngôi mộ được dựng theo hình giọt nước mắt chảy ngược với hình trái tim lớn ở chính giữa. Ngoài tên tuổi, ngày sanh ngày mất, còn có hai chữ “The Voice” (Giọng Hát) hàm ý hình ảnh và giọng hát của bà sẽ mãi mãi hằn in trong tâm những người hâm mộ bà trên khắp thế giới. Phía dưới giọt nước mắt là tên một bài hát “I Will Always Love You”. Bài hát này là sáng tác của ca sĩ dân ca đồng quê Dolly Parton và được bà trình bày từ năm 1974. Nhưng bài hát chỉ thực sự nổi tiếng và được hai giải Grammy khi được Whitney Houston hát trong phim The Bodyguard vào năm 1992.
Đối với những người…can đảm thì sống và chết cũng như nhau. Chẳng có gì thay đổi. Vậy nên nằm xuống mà họ vẫn…phiếm. Nhất định tôi phải khoái những người cười khẩy vào mũi ông thần chết này.
Một ông cho khắc trên mộ bia của mình hàng chữ: “Tôi từng là một thằng nổi tiếng mập, nay tôi chỉ còn da bọc xương. Tôi đã giảm mập thành công, hi…hi…”
Trên mộ cô Masha: “Masha xinh đẹp và kiêu ngạo, những thứ cô từ chối với mọi người đàn ông, nay đều rộng rãi ban tặng cho dòi bọ”.
Trên mộ một thanh niên: “ Cám ơn chính phủ đã giải quyết cho tôi vấn đề nhà ở”.
Trên mộ một bà: “Tôi đã trị dứt bệnh mất ngủ”.
Trên mộ một em bé chết yểu mới hai tuần tuổi: “Tôi đã tới trần gian, dạo một vòng, nhưng thấy không vừa ý, nên đã quay về”.
Trên mộ một tín đồ ngoan đạo: “Thượng Đế đã hứa cho tôi lên thiên đàng, nhưng trước khi ra đi, tôi mới sực nhớ quên ký giao kèo với Ngài”.
Trên mộ một người nghèo: “Tôi rất mừng khi thấy mộ người giầu đều bị đào trộm, chỉ tôi là thoát nạn”.
Trên mộ một bợm nhậu: “Tôi không nằm ở đây, tôi ở ngoài quán”.
Trên mộ một bà lao công chuyên dọn dẹp nhà vệ sinh: “Bên trong đang có người”.
Bia mộ thường được ghi tên tuổi của những người nằm ở dưới. Đó là một tấm bảng thông tin. Hơn là một bảng thông tin, khi khắc thơ trên bia mộ người ta đã nói lên được nhân sinh quan cũng như ước vọng của người đã nằm xuống. Những bia mộ loai…phiếm ghi trên là những tràng cười chưa chấm dứt khi con người bị cắt đứt cuộc sống.
Ngược lại với những bài thơ vung vẩy trên các bia mộ ở Cực Lạc Thái Bình, bia mộ trong nghĩa trang ở xã Long Sơn, thị xã Vũng Tàu lại im lìm một cách khác thường. Tất cả các nấm mồ đều không có bia. Người nằm dưới thủ khẩu như bình, không tiết lộ tên tuổi, thân thế. Bà Lê thị Đến, nguyên thành viên điều hành nghĩa trang, giải thích: “Người dân trong xã đều theo đạo Trần. Đạo Trần không phân biệt đẳng cấp nên lúc trở về với cát bụi họ đều bình đẳng như nhau. Theo triết lý của người sáng lập ‘sống thì đồng quang, chết thì đồng quách’. Bà Lê thị Kiềm, trưởng Ban Điều Hành cho biết thêm: “Đạo Trần chỉ dạy đạo làm người, lớn thì cô bác, nhỏ thì anh chị, ăn ở hiền lành, ăn ngay nói thật, việc phải thì làm, việc quấy thì chừa nhưng phải tuân theo phép nước, trai trung hiếu, gái tiết hạnh. Sau khi người thân qua đời, gia đình không được lập bia mộ, con cháu muốn vào nhang khói thì phải ghi nhớ trong đầu vị trí ngôi mộ, hoặc có dấu hiệu riêng để nhận ra”.
Cũng chẳng chữ nghĩa chi trên bia mộ nhưng đây lại là chuyện khác. Chuyện vợ chồng không cùng tôn giáo. Đại Tá Kỵ Binh Hòa Lan J.W.C. van Gorcum theo đạo Tin Lành trong khi vợ ông, bà J.C.P.H. van Aefferden lại theo Công giáo. Họ kết hôn vào năm 1842, ông hơn bà 11 tuổi. Khi sống gắn bó với nhau nhưng khi chết phải chia lìa. Ông đi trước vào năm 1880 được chôn ở nghĩa địa Tin Lành. Tám năm sau bà theo ông nhưng không theo được trọn vẹn. Bà đã từ chối an táng tại nghĩa địa gia đình để được chôn gần ông, tuy không cùng trong một nghĩa trang vì bà không theo Tin Lành. Bà được chôn ở một nghĩa trang bên cạnh, chỉ cách một bức tường rào. May là mộ ông ở sát tường ngăn cách hai nghĩa trang nên bà được chôn ở phía bên kia tường, gần nhau nhưng có một bức tường đứng chình ình ở giữa! Vậy là chẳng cần chữ nghĩa trên bia mộ, họ nối tình với nhau bằng cách xây hai cái bia vượt cao hơn bức tường. Một bên bia thò ra cánh tay bà, bia kia thò ra cánh tay ông. Dĩ nhiên là cánh tay bằng đá! Hai cánh tay siết lấy nhau, coi bức tường chắn giữa như không có!
Chẳng cần lời nói. Cứ bia mộ trống trơn vẫn được việc. Vợ ông Milan Marinkovic ở Serbia, chết vào lúc ông chồng được 72 tuổi. Vậy mà bà vẫn còn muốn giữ độc quyền ông. Trước khi nhắm mắt xuôi tay bà dặn ông khắc trên mộ chung của hai ông bà hình “đóa hoa” của bà. Để ông khỏi đi ngắm những đóa hoa khác. Vốn tính cẩn thận, trước khi chết, bà còn cho chụp hình đóa hoa của bà cho chính xác! Ông vốn có tính chiều vợ nên đành chiều bà lần chót. Ông tìm thợ khắc…chim. Chẳng ông nào dám làm vì coi đây là việc báng bổ thần thánh. Cuối cùng ông cũng kiếm được người thực hiện lời trối trăng của bà. Ông khoan khoái vì đã thực hiện được một công trình ghi dấu nửa thế kỷ chồng vợ của hai người.
Nhìn hình khắc trên mộ quả thực tôi không nhận ra ẩn ý của hai người. Trông như hình trang trí một đóa hoa. Hoa thiệt chứ không phải hoa…thịt! Anh thợ điêu khắc này quả là bất tài! Ông Milan cho biết người em rể của ông đã hỏi: “Tại sao con chim trên mộ Milena lại có chiếc mỏ lớn đến vậy?”.
Rất nhiều người không nhận ra đóa hoa của vợ ông. Kể cũng phải. Chắc chỉ có mình ông biết. Vì đó là đóa hoa thầm kín!
09/201
|