Montreal chúng tôi vừa có một cơn bão nhỏ trong chén trà. Đó là vụ một thanh tra ngôn ngữ đã bắt một nhà hàng Ý không được để chữ “pasta” trong thực đơn của nhà hàng. Ông chủ nhà hàng la làng lên. Nhiều người la giúp ông trên internet, vậy là cả thế giới được dịp cười hả hê về sự thiển cận của nhà cầm quyền tỉnh bang Québec chúng tôi. Phải nói cho mọi người không ở Québec hiểu về cái vụ “thanh tra ngôn ngữ”. Số là tỉnh bang Québec là xứ của dân nói tiếng Pháp mà tiếng Pháp bi chừ bị lép vế vì tiếng Anh được phổ biến rộng rãi hơn trên khắp thế giới. Đi tới đâu cứ xì xồ tiếng Anh là thế nào cũng có người bắt chuyện. Tiếng Pháp không được như vậy, không kể thứ tiếng Pháp của dân Quebec là thứ tiếng Pháp…nhà quê, dân Pháp ở bên tây khinh thị ra mặt. Trong một kỳ tới Paris trước đây, cô em họ tôi ngụ cư ở Paris từ đầu thập niên 1960, có nhã ý mời tôi một bữa ăn quy tụ tất cả các cháu để bác cháu biết mặt nhau. Các cháu tôi đã lập gia đình với người bản xứ và ở riêng trong nhiều vùng cách xa nhau, hiếm khi họp mặt đông đủ. Cô em giới thiệu tôi đến từ Montreal bên Canada. Vậy là các anh chị tây đầm và cả các cháu tôi, vốn sanh đẻ tại Pháp, đua nhau trẹo mồm trẹo miệng nhại tiếng…Québec với nhau. Tôi cười xòa, vui thôi mà. Vả lại tôi có mắc mớ gì tới thứ tiếng Pháp cứng còng còng của dân Québec đâu. Vậy mà chính phủ tỉnh bang Quebec luôn nhất định bảo hoàng hơn vua, ban hành những lệnh bảo vệ tiếng Pháp bằng các quy định khắt khe bắt phải dùng chỉ chữ Pháp hoặc chữ Pháp lớn gấp đôi các thứ tiếng khác trong các bảng hiệu, thực đơn nhà hàng và các nơi công cộng. Để kiểm soát việc thi hành các lệnh này, họ có những thanh tra ngôn ngữ.
Ký giả Josh Freed của báo The Montreal Gazette đang nghỉ hè tại Thái Lan khi vụ mà báo chí gọi là “Pastagate” này xảy ra tại Montreal. Ông viết: “Tôi đang du lịch bằng xe đạp với vài người bạn tại miền Bắc Thái Lan, một vùng hẻo lánh với những chùa chiền, cánh đồng xanh rì, nơi những nông dân còn làm ruộng bằng tay. Vậy mà, tôi phải ngạc nhiên vì nơi đây có wifi trong hầu hết các nhà trọ nhỏ và các quán ăn ven đường mà chúng tôi ghé vào. Dĩ nhiên chúng tôi, vốn toàn là nhà báo, không thể không mở điện thoại để theo dõi tin bên nhà. Một vài tin tức từ Québec đã chiếm chỗ trong các phương tiện truyền thông thế giới như tin về vụ Pastagate. Tin này làm chúng tôi cười ngất trong câu chuyện vãn mỗi tối. Chúng tôi đang ở Thái Lan nên ăn rất nhiều pad Thai, vậy nên tôi tự hỏi là không hiểu các ông thanh tra ngôn ngữ ở bên nhà có Pháp hóa món ăn này thành pad cravatte không?”. Ông Josh Freed này đã chơi chữ để chọc quê các ông thanh tra ngôn ngữ Québec: ông đọc Thai thành tie tiếng Anh có nghĩa là cà vạt rồi dịch sang tiếng Pháp!
Tôi bắt đầu bài viết bằng câu chuyện làm đỏ mặt dân Québec, nhất là thứ dân nhập cư như dân Việt chúng ta, để đưa ra một sự kiện là bây giờ wifi đã phổ biến tới tận các thôn làng của những xứ đang phát triển. Chỗ nào cũng wifi. Vậy mà trong số các ông bạn tôi đang sống tại thành thị hẳn hoi mà vẫn có ông kênh kiệu hỏi: “Wifi là cái quái chi vậy?”. Mấy ông này nhất định không sờ tới cái máy computer. Chê trách các ông không hội nhập được văn minh tiến bộ của nhân loại thì các ông trả lời một cách gàn dở: “Bộ đời sống chưa đủ nhức đầu hay sao mà ôm thêm cái rắc rối vào người?”. Chẳng nên chấp người gàn dở, các ông ấy hỏi wifi là “cái quái gì” thì cứ trả lời cho các ông ấy biết. Nhưng trước hết phải hỏi lại: các ông có biết internet là cái chi chi không? Chuyện này thiên hạ nói hà rầm nên chắc các ông ấy phải biết sơ sơ.
Đó là thứ nối các loại máy computer, laptop, tablet hay bất cứ thứ phôn thông minh có khả năng kết nối vào mạng lại với nhau để có thể liên lạc, thông tin với nhau bất kể không gian xa gần. Đại khái là như vậy. Tính đến nay internet đã được 44 tuổi. Kể cũng đã là…trung niên. Bốn mươi bốn năm trước, chính xác là vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, một đoạn dây dài 5 thước nối giữa hai máy điện toán đặt trong Viện Đại Học California ở Los Angeles đã được Giáo sư Leonard Kleinrock dùng để chuyển thông tin từ máy này sang máy khác. Đường đi gần xịt lại có dây nối kết, ngày nay chuyển như vậy được coi là trò trẻ. Nhưng bước đầu tiên của internet coi lơ mơ dễ dàng như vậy đã là công khó của toàn thể nhân viên tham gia vào cuộc thí nghiệm. Họ mừng muốn chết khi đẩy được thông tin đi xa được năm thước! Một tháng sau đó, vào ngày 29 tháng 10 năm 1969, khi Đại học Stanford nhận được bộ phận chuyển mạch thứ nhì thì Giáo sư Kleinrock mới chuyển được dữ liệu từ Los Angeles tới Stanford. Họ chuyển cái chi cho nhau vậy? Chắc ai cũng tò mò muốn biết nội dung của thông tin lịch sử này. Không biết thì thắc mắc, biết thì…hỡi ôi. Họ chỉ chuyển cho nhau vẻn vẹn một chữ “log”. Vậy mà khi Giáo sư Kleinrock và sinh viên Charley Kline mới đánh được hai chữ “l” và “o” thì mạng bị đứt. Họ chỉ truyền cho nhau được chữ “lo”. Nếu hiểu theo tiếng Việt thì “lo” quá đi chứ. Đứt mạng như vậy thì tương lai của internet thật đáng…lo. Nhưng lo thì lo, người ta cũng đã gửi cho nhau được mối lo, vậy là có thể liên lạc được rồi. Sau Đại Học Stanford, hai đại học UC Santa Barbara và Đại Học Utah xin tham gia vào chương trình thí nghiệm. Bốn phòng thí nghiệm này được coi như mạng internet đầu tiên trên thế giới. Phải tới gần bốn chục năm sau, vào tháng 9 năm 2008, Giáo sư Kleinrock mới được Tổng Thống Mỹ George W. Bush gắn huy chương National Medal of Science, huy chương cao quý nhất của nước Mỹ cho các khoa học gia. Kể là chậm rì chứ không được nhanh như…internet!
Internet là một cuộc cách mạng toàn cầu. Từ khi có internet thế giới thu nhỏ lại. Dân thường chúng ta khoái nhất thứ gọi là e-mail. Dù xa nhau tới chân trời góc biển nào, cứ dùng e-mail là “meo” cho nhau thoải mái. Chẳng cần tới ông bưu điện, chẳng phải chờ đợi ông phát thư. Ngày xưa những cặp tình nhân hồi hộp trông thư nhau phải rình rập ông phát thư tới căng mắt. Ngày nào ông ấy tỉnh bơ đi ngang qua mà không ghé ngang nhà là coi như một ngày vô vị. Ngày nay, với e-mail, gõ xong, bấm một cái là bên kia nhận được thư tức thì. Vừa nhanh vừa đỡ dài cổ. Nhanh thì có nhanh nhưng nét thơ mộng đã không còn. Thư do ông phát thư bấm chuông trao cho là những tờ giấy pelure mỏng dính, ướp tí nước hoa vẫn thường dùng hàng ngày cho có mùi người yêu, vẽ thêm tí hoa lá, tí chim uyên vào cho duyên dáng, nhất là đó là nét chữ viết đặc thù của người yêu nơi xa, tình biết bao. Ngày nay gửi “meo” khô khan hơn nhiều. Thư chỉ là những chữ đánh trên máy cứng ngắc, đồng dạng, chẳng thơ mộng chi. Có cố gắng lắm thì cũng chỉ nhét vào được hình ảnh hai trái tim hoặc cọng hoa bóng lá. Những thứ thêm vào này cũng là những mẫu sẵn, ai xài cũng giống nhau, chán chết. Nhưng thời đại điện tử ngày nay, thơ mộng đã chết từ lâu nên cứ nhanh như điện là khoái rồi. Tha hồ tâm sự mà chẳng tốn đồng bạc tem nào, tính ra lời chán.
Ngày xưa, muốn nghe tiếng nhau, phải dùng phôn trò chuyện, Vừa nói vừa canh giờ vì thời giờ đúng là tiền bạc. Nói phút nào móc hầu bao ra trả phút đó.Thời thanh niên chúng tôi, muốn nói chuyện đường xa thì phải ra bưu điện, hẹn giờ nhau để phôn. Rắc rối vô cùng. Sau đó, có phôn đặt tại nhà, kể có tiện hơn nhưng cước phí làm chùn lại nhớ thương. Muốn nói lời yêu thương là phải móc bóp, một hành động rất chi là ngại ngùng. Với internet ngày nay con cháu chúng ta yêu nhau tiện lợi hơn nhiều. Tha hồ chat. Từ khi có skype thì vừa nói vừa nhìn nhau thả giàn, chẳng cần phải nhớ nhau. Yêu đường xa như vậy chỉ còn một ngăn cách: không chạm nhau được. Kể cũng kẹt. Chắc phải chờ tới khi có trò đằng vân giá vũ mới xong!
Internet là một kho tàng chung của nhân loại. Tất cả kiến thức của thế gian này hầu như đều chứa đựng trong đó. Lơ mơ chuyện chi cứ gõ vài chữ là những điều chúng ta tìm kiếm sẽ hiện ra hết. Ngày xưa chúng ta kiếm trong những cuốn bách khoa tự điển dày cộm mỗi bộ vài chục cuốn chưng trong tủ sách, ngày nay bách khoa tự điển đã đi vào bảo tàng viện, chẳng ai bỏ tiền ra mua làm chi. Cần chi, cứ internet mà tra khảo. Mạng internet là một thứ ma xó, chẳng có chuyện gì qua mắt được nó. Chuyện đứng đắn cũng như chuyện tầm phào nhảm nhí. Chuyện vui cũng như chuyện buồn.
Chuyện buồn mới nhất là vụ bom nổ trong cuộc chạy marathon ở thành phố Boston vào ngày 15 tháng 4 vừa qua. Hai trái bom đã gây tử thương cho ba người, trong đó có một em bé mới 8 tuổi và một nữ sinh viên người Hoa 23 tuổi đang theo học MA tại Đại học Boston tên Lữ Lệnh Tử, và làm bị thương hơn 170 người. Theo chuyên gia Frank Cilluffo, Giám Đốc Viện An Ninh Nội Địa thuộc Đại Học George Washington thì trên trang mạng Inspire, tổ chức khủng bố al-Qaeda đã khuyến khích các phần tử cực đoan tiến hành khủng bố ngay tại nơi họ đang cư ngụ. Và cũng chính trang mạng này đã dạy cách làm bom tự chế bằng nồi áp suất, thứ vũ khí mà hai anh em khủng bố Tamerlan Tsarmaev, 26 tuổi và Dzhokhar Tsarmaev, 19 tuổi, đã tự chế và sử dụng. Thứ bom homemade này dùng nồi áp suất trong có gài thuốc nổ và các mảnh kim loại, đinh nhọn và được kích hỏa từ xa bằng điện thoại di động. Khi nổ, các mảnh kim loại và đám đinh này bắn ra gây thương tích cho các nạn nhân. Internet khi hại thì hại chết người như vậy!
Này ông, sao ông loanh quanh dữ vậy. Wifi là cái quái gì sao ông không trả lời mà cứ ầu ơ ví dầu hoài thế? Từ từ! Chuyện đâu còn đó. Wifi là chữ viết tắt của Wireless Fidelity là một hệ thống mạng vô tuyến sử dụng sóng vô tuyến. Sóng vô tuyến thì ai cũng biết rồi. Chúng ta bắt làn sóng điện để nghe radio, coi ti-vi từ lâu. Chuyện quá thường. Wifi cũng dùng làn sóng điện để chuyển tín hiệu của internet. Nó…giải phóng internet bằng cách phóng lên trời cho những người có computer, laptop, tablet hay điện thoại thông minh smart phone bắt làn sóng để sử dụng. Dĩ nhiên làn sóng wifi chứa nhiều dữ kiện hơn nên phức tạp hơn. Chúng truyền và phát tín hiệu ở tần số cao hơn các tần số sử dụng cho truyền thanh, truyền hình và điện thoại di động. Wifi hoạt động trên tần số từ 2.5 GHz cho tới 5GHz.
Muốn có wifi trong nhà chúng ta phải bắt một router vào giây cung cấp internet của hãng cung cấp mà chúng ta trả tiền mua dịch vụ. Có hãng cung cấp internet qua dây cáp, có hãng qua đường dây điện thoại. Router sẽ nhận nguồn internet và phát thành sóng trong một khoảng không gian nhất định. Làn sóng này sẽ có tên và khi truy cập phải có mật mã password do chính ta đặt ra. Nếu không có mật mã, làn sóng sẽ bị các người khác quanh nhà ta sử dụng. Người sử dụng ké này có thể mang lại nhiều phiền phức cho chúng ta. Vậy nên chẳng ai muốn có lòng tốt không đặt ra mật mã để ngăn cản người khác cả. Bạn bè chúng ta tới nhà, nếu họ mang theo phôn thông minh hoặc tablet hay laptop muốn dùng wifi, chúng ta sẽ vô mật mã cho họ thâm nhập vào. Có hai loại cho phép dùng: dùng một lần hoặc dùng thường xuyên. Nếu bạn sơ giao chỉ tới một lần bạn sẽ chỉ cho dùng một lần, bạn thân lui tới nhiều lần ta sẽ cho dùng thường xuyên. Những lần lui tới sau, wifi sẽ tự động vào máy của họ, khỏi cần đánh mật mã lại lôi thôi.
Wifi ngày nay đã trở nên thông dụng khi các thiết bị mang tay ngày càng có nhiều người dùng. Vậy nên các nhà hàng ăn hay các tiệm cà phê thường cung cấp wifi cho khách hàng. Muốn biết tiệm nào…văn minh cứ nhìn vào tấm giấy dán ngoài cửa chính của nhà hàng: wifi zone hoặc wifi free. Các phi trường lớn hoặc các mall ngày nay cũng thường có wifi. Khách sạn thì khỏi nói, wifi là một chiêu câu khách chính. Ông bạn nghiện wifi của tôi đã tuyên bố một câu xanh rờn: “Nếu phải chọn giữa hai khách sạn, một có wifi, một có ăn sáng free, tớ sẽ chọn wifi. Nhịn đói mà có wifi, tớ chơi liền khỏi cần suy nghĩ”. Nhiều thành phố chịu chơi còn rải wifi ngoài đường xá. Nơi thì chọn một khu nào đó , thường là khu downtown như thành phố Montreal chúng tôi, nơi chơi trội có wifi toàn thành phố như… Hội An!
Wifi miễn phí khắp vùng đô thị cổ Hội An có từ ngày 18 tháng 3 năm 2012. Để thực hiện được vùng phủ sóng rộng lớn này khu phố cổ Hội An đã phải đặt tới 350 địa điểm phát sóng. Thông thường sóng wifi chỉ bao phủ được một vùng rộng khoảng 20 thước nếu ở trong nhà. Ở ngoài đường có không gian thoáng hơn thì sóng có thể đi xa hơn. Muốn đẩy cho sóng bao phủ một vùng rộng lớn, người ta phải có những trạm tiếp vận sóng gọi là điểm phát sóng. Khi chúng ta dùng wifi trong nhà, nếu nhà rộng hay nhiều tầng thì chúng ta cũng phải có thiết bị tiếp sóng. Thiết bị này giá khoảng 40 đô, được cắm vào ổ điện trong nhà.
Hội An ngày nay là một điểm du lịch kéo rất nhiều du khách ngoại quốc tới nên việc phủ sóng wifi khắp thành phố là một hành động thương mại cần thiết. Nhưng Việt Nam ngày nay được liệt vào một trong số những quốc gia hạn chế và kiểm duyệt internet nên không biết du khách có gặp trở ngại của những bức tường lửa ngăn chặn internet không. Tường lửa là chữ dùng cho việc cài đặt software nhằm ngăn chặn người dùng tiếp cận được những thông tin mà nhà cầm quyền không muốn dân chúng biết. Google đã tố cáo việc ngăn chặn này sau khi thành phố Hà Nội ra quyết định vào ngày 26 tháng 4 năm 2010 bắt buộc các quán cà phê internet, khách sạn và các cơ sở kinh doanh mạng khác phải cài đặt phần mềm do nhà nước phân phối này. Sau khi phần mềm này được gắn thì tất cả các dàn máy cho thuê tại tiệmsẽ được kết nối với máy chủ đặt ở quận để công an theo dõi hành động của những người sử dụng đồng thời kiểm soát xem chủ tiệm có tuân hành lệnh theo dõi các khách hàng không. Dorothy Chou, phân tích gia chính sách của Google, tố giác: “Quyết định buộc phải cài đặt phần mềm kiểm soát như thế sẽ xiết lại các truy cập thông tin đối với rất nhiều người ở Hà Nội vì các quán cá phê internet rất phổ biến tại Việt Nam. Nếu lệnh này được khai triển ra các địa phương khác ngoài Hà Nội, nó sẽ cấm cản tất cả các người dùng internet trên cả nước”. Chính phủ Việt Nam, vốn có truyền thống cãi cối cãi chày, đã cho phát ngôn viên chính phủ Nguyễn Phương Nga cực lực lên án Google ngay. Blogger lề trái “Người Buôn Gió” bình luận: “Chị Nguyễn Phương Nga khi nào trả lời quốc tế miệng cũng dẻo quẹo, Việt Nam có tự do internet, bằng chứng nào là càng ngày càng có nhiều thuê bao internet đăng ký thêm tại Việt Nam. Đúng là có thì có thật, nhưng thật thế nào thì còn phải xem lại. Người ta không đến nỗi đổ oan hết để chị phải méo miệng thanh minh đâu. Việt Nam có cho tự do đăng ký thuê bao dùng internet, nhưng dùng tường lửa để chặn nhiều trang. Nói đầy đủ là như vậy. Như kiểu tao cho mày ăn bao nhiêu cũng được, miễn mày có tiền mua, nhưng tao chỉ cho bán những thứ tao muốn!”.
Các chính phủ độc tài rất phiền internet, nhất là từ năm 1999 khi có thêm wifi. Chuyện mà các chế độ độc tài muốn dấu nhẹm thì internet đã mách lẻo ra khắp thế giới ngay tức khắc. Hình ảnh những cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam bị công an và côn đồ dẹp một cách man rợ được bỏ lên internet hầu như ngay lập tức cho bàn dân thiên hạ khắp năm châu bốn biển chiêm ngưỡng. Người ta muốn bưng bít mà internet cứ toang hoác tất cả. Cấm thì thiếu tính thời đại mà cho thì run. Vậy thì phải để cho người ta chặn chứ. Chỉ có cái phiền là những con người đầu óc đặc sệt bít kín như những ông bình vôi mà nhà văn Phan Khôi đã biếm nhẽ từ thời Nhân Văn Giai Phẩm, tới thế kỷ 21 này mà vẫn còn…bình vôi! Họ muốn lội ngược dòng. Có những kẻ đã chết đuối như những nhà độc tài bên Trung Đông trong các cuộc cách mạng của dân chúng được thế giới biết đến dưới cái tên “cách mạng hoa lài”. Chính nhờ có internet và wifi mà các thanh niên đã rủ nhau tập trung làm thành những đám đông cách mạng đánh văng những tên độc tài ngồi chồm hổm trên đầu họ. Cũng chính nhờ có internet mà những cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã được tuổi trẻ Việt Nam hình thành tại Sài Gòn, Hà Nội và một vài thành phố khác trên khắp nước. Internet đã là yếu tố chính trong thành công của các cuộc cách mạng hoa lài. Tới nay nó vẫn chưa ngưng nghỉ vì thế giới chưa hết những chế độ độc tài. Có thể nói internet và wifi đã góp phần rất lớn trong việc mang lại tự do cho nhân loại.
Wifi cũng mang lại tự do cho tôi. Từ ngày có wifi tôi không còn phải chôn người cạnh chiếc máy computer đầy dây nhợ nữa. Cứ ôm cái tablet nhẹ tênh bên người, muốn lui tới xó xỉnh nào trong nhà cũng tiếp cận được với bè bạn khắp thế giới. Ra ngoài đường, chiếc phôn bên người nối kết với wifi…chùa tiếp tục làm cầu nối với mọi người. Tự do, khoái thật! Wifi, sao mi thần kỳ thế!
04/2013
|