Bánh
Bia
Cận
Cầy
Cu
Cưng
Cưỡng
Dỏm
Dọn
Đồng
Hoạ
Không
Lái
Mật
Ngôn
Nhốt
Olá
Sang
Sen
Tắm
Tật
Tên
Thiếu
Thịt
Tiếp
Tinh
Trưng
Vui
Wifi

OLÁ

1

Olá tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là hello. Gặp nhau ngoài đường muốn ới nhau là olá, cửa tiệm muốn chào mời khách cũng olá. Chữ tương tự trong tiếng Tây Ban Nha là hola. Tôi cứ phân vân không biết nên đặt cái tít cho loạt du ký này là olá hay hola. Trong 18 ngày, tôi đã đặt chân tới cả hai xứ sở thuộc miền Nam Âu châu này. Chọn chữ hola có cái hay là có thể “dịch” ra tiếng Việt là “hò la” nghe rất có vẻ…ới! Trong suốt thời gian lê la ở hai nước…Nha này tôi không gặp được một người Việt hay một nét nào liên quan tới nòi Việt nên bỗng nhớ nhà. Vậy nên tôi săm soi trong chữ nghĩa Tây Ban Nha để tìm tiếng Việt. Tôi bắt gặp được hai lần. Một lần là cái tên của một tiệm cà phê: O Xaxu. Tôi chơi ngay thành tiếng Việt: ôi xa xứ! Lần khác là tên một tiệm ăn: Vit. Đích thị là…vịt tuy quán không bán thịt vịt!

Nhưng chọn chữ olá có cái hay khác. Đó là cái dấu sắc trên chữ “a”. Nó Việt cách chi đâu. Cũng chẳng có gì lạ vì nó là chị em với các dấu trong tiếng Việt chúng ta. Chữ quốc ngữ của chúng ta do một tập thể các giáo sĩ sang nước ta truyền giáo hình thành vào thế kỷ thứ 16. Người có công đầu là linh mục Francesco de Pina, một giáo sĩ dòng Tên người Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong vào năm 1617 và mất vì nạn đắm thuyền tại vịnh Đà Nẵng năm 1625. Chính vị giáo sĩ người Bồ Đào Nha này là người đầu tiên nói thạo và giảng đạo bằng tiếng Việt. Cũng chính ông đã hợp tác với nhiều người trong đó có một thanh niên Việt có tên thánh là Phê-rô để khởi thảo việc La Tinh hóa tiếng Việt. Vậy nên các dấu tiếng Việt mới chị em với các dấu tiếng Bồ Đào Nha. Tôi đã để ý những dấu trên chữ Bồ trong những ngày lang thang ở nhiều tỉnh của xứ Bồ. Tôi thấy chỉ có ba dấu: sắc, huyền và ngã. Vậy thì hai dấu hỏi và nặng do đâu mà có? Tôi nghĩ là đó là sáng chế của linh mục Francesco de Pina khi gặp cái uốn éo của âm Việt. Chính vì những cái dấu quen thuộc nên tôi mặn chữ olá hơn chữ hola.

Pác-sơ-cờ như vậy coi bộ đã ổn nhưng tôi còn một lý do khác. Đó là tôi ở trong trạng thái có thể ngủ mơ thấy chữ olá hay hola. Tuy viết khác nhau nhưng khi phát âm thì hai chữ này nghe y như nhau nên nếu chỉ nghe thì chúng là một.Tôi nói ngủ mơ thấy chúng không phải vì nghe dân địa phương nói nhiều mà vì người nói nhiều hai chữ này lại là một ông Việt Nam. Anh Đặng Sĩ. Anh là người tổ chức chuyến đi. Tới đâu anh cũng ôm tấm bản đồ dò đường. Cứ đi một quãng anh lại olá khi ở Bồ Đào Nha và hola khi ở Tây Ban Nha. Nắm được áo ai là anh nắm. Nam phụ lão ấu anh đều kinh qua hết. Anh olá hola nhiều đến nỗi có thể rút được kinh nghiệm. Đàn ông chỉ đường đúng hơn đàn bà. Chúng tôi đã nhiều lần dắt díu nhau lếch thếch lội bộ loanh quanh vì những cái tay chỉ sai đường. Anh Sĩ cầm tinh con cọp nên anh…hống như cọp. Bảo đảm là không ai trong chúng tôi không nghe thấy tiếng anh dù anh luôn thoăn thoắt bỏ xa chúng tôi một quãng đường dài. Cái âm mạnh mẽ của hậu duệ ông ba mươi đã chui vào giấc ngủ tôi đêm đêm! Thế nên khi định viết loạt bài này tôi chẳng cần nghĩ ngợi về cái tên. Nó đã nằm trong giấc ngủ tôi!

Chúng tôi gồm 9 người rủ nhau thuê một chiếc xe chín chỗ ngồi chạy rong trên khắp nẻo đường của bốn nước: Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Gibraltar. Cái…nước Gibraltar này là một lãnh thổ hải ngoại của Anh. Ngồi trên máy bay xuất phát từ Montreal, tôi rút cuốn chỉ dẫn có vẽ bản đồ thế giới trong chiếc túi sau ghế ngồi phía trước. Tôi liếc qua và bỗng thấy một con…chó. Đầu chó là nước Pháp đang gặm một cục xương bự tổ chảng là nước Ý. Thân chó là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Gibraltar bé tí tẹo bám vào Tây Ban Nha như một chú khỉ nhỏ trên lưng một anh chàng yêu thú vật.

Ngắm đi ngắm lại “con chó” để định hướng những thành phố mình sắp đặt chân đến tới phát chán mà vẫn chưa thấy máy bay chuyển động. Nửa giờ ì ạch trôi qua. Mọi người đã thấy sốt ruột. Thây kệ. Máy bay vẫn ì ra. Nửa giờ nữa trôi qua viên phi công mới lên tiếng. Chiếc cửa của khoang chứa hành lý không đóng khít lại được, máy bay phải vào hangar để sửa lại. Hành khách sẽ được di chuyển tới khách sạn Sheraton gần phi trường để nghỉ ngơi. Ai không muốn ở khách sạn có thể về nhà và giữ liên lạc với hãng British Airways. Ai muốn đi chuyến khác có thể điện thoại kiếm chỗ. Chúng tôi ít khi bỏ qua những chuyện free nên lên xe buýt trực chỉ khách sạn. Tưởng chỉ trú chân ít tiếng ai ngờ phải ở nguyên một đêm một ngày. Mất một ngày vàng ngọc nhưng được hầu hạ cơm bưng nước rót ba bữa. Kể là hên như trúng số độc đắc vì mấy khi được cưỡi máy bay hư!
Chín người chúng tôi là một bày ông già bà cả. Trẻ nhất là chị Tiên, vợ anh Sĩ, cũng đã vác trên vai nửa thế kỷ. So với mọi người, đống tuổi tác chị vác trên vai không nhiều nhưng cũng làm chị chùng xuống. Tôi vẫn trêu ghẹo chị là từ đầu xuống tới chân gần xịt! Ông bạn nhà văn Võ Kỳ Điền cũng lụi đụi có mặt trong nhóm. Thêm một người nữa là chị Cầm. Chắc chẳng ai biết chị Cầm là ai nhưng nếu tôi nói ra thì hầu như ai trong lứa tuổi chúng tôi cũng biết chị là ai! Đó là chủ nhân của cửa hàng nước mía Viễn Đông ở Sài Gòn. Tôi giỡn với chị: “Ngày xưa chị ăn giỗ biết bao nhiêu tiền của tôi đấy, chị biết không?”. Chẳng cứ tôi, lứa tuổi chúng tôi ai cũng có thể nói như vậy. Ai trong chúng ta không từng lê la trên đường Pasteur, nơi những chiếc xe bán thịt bò khô hay phá lấu tim gan phèo phổi ghim trên một que tăm chấm tương đen tương đỏ rồi kết thúc bằng một ly nước mía Viễn Đông mát lạnh nằm ngay đó. Khi một mình, khi cùng đám bạn học, khi cùng người tình, ly nước mía Viễn Đông ngày đó thật ngọt ngào.

Gần 10 giờ tối, chúng tôi mới thực sự ngồi trên chiếc máy bay Boeing tới Luân Đôn rồi bay tiếp để tới Toulouse vào lúc 4 giờ chiều ngày hôm sau. Trời mùa đông, 4 giờ chiều mà đã nhọ nhem. Khách sạn đều đã được book từ trước nên không thể trễ được. Một ngày trễ đã mất tiêu một đêm khách sạn ở Toulouse nên chúng tôi đành phải cướp thời gian. Lấy chiếc xe Opel số tay từ phi trường Toulouse, anh Sĩ đã phải lái đêm vượt biên giới Pháp tới Bilbao ở Tây Ban Nha. Trời tối, xe số tay chưa quen, đường lạ lại đèo dốc, rặng Pyrénées sừng sững phía trước, sáu tiếng lái xe như đoạn đường chiến binh trong quân trường. Hola Tây Ban Nha!

Khi tham gia chuyến đi tôi nghĩ ngay tới một vùng đất đầy dấu vết lịch sử. Quả thật lịch sử bao vây chung quanh mỗi bước chân của chúng tôi. Nhưng điều trớ trêu là bắt đầu cuộc chơi, chúng tôi lại chạm trán vào văn minh hiện đại. Tôi muốn nói tới viện bảo tàng Guggenheim Museum Bilbao. Tòa nhà trông không giống ai lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đó là một khối trông như hình một con rắn cuộn mình có lớp mạ titan trắng bạc để bắt ánh sáng mặt trời. Dưới ánh sáng nhợt nhạt của một buổi sáng trời không nắng, tôi thấy viện bảo tàng Guggenheim trông như một khối kim loại đặt nằm bên nhau một cách hỗn độn. Lạ thì có lạ nhưng cảm thì không. Nhưng đó là nghệ thuật. Mà nghệ thuật thì chỉ gật gù mà ngắm! Được khánh thành vào năm 1997, viện bảo tàng này là một công trình hiện đại của kiến trúc sư Frank O. Gehry. Ông kiến trúc sư này đã tiêu tốn tới 127 triệu rưởi đô Mỹ để hoàn thành kiến trúc chẳng bao lâu đã trở thành biểu tượng của thành phố công nghiệp Bilbao. Đây là một trung tâm nghệ thuật hiện đại quốc tế giới thiệu tới công chúng và du khách những tác phẩm nghệ thuật Âu Mỹ thế kỷ 20 và 21. Tôi đứng ngắm để cố tìm vẻ nghệ thuật nằm ẩn dấu dưới những hình thể ghép một cách hững hờ bên nhau. Thôi thì cứ kính nhi viễn chi cho chắc ăn. Nhưng tượng chú chó được đặt ngay tại cổng chính của bảo tàng thì chẳng cần phải tưởng tượng chi cho mất công. Nhìn vào ai cũng biết đây là con chó!


Viện Bảo Tàng Guggenheim

Chú chó mang tên Puppy có chiều cao 12 thước là công trình của Jeff Koons. Với bộ khung bằng thép không gỉ, da thịt chú chó là một lớp cây hoa. Khi chúng tôi tới vào mùa đông hoa đã tàn chỉ thấy lớp lá xanh còn cố bám vào thân hình chú chó cao nghều nghệu, nghểnh cổ tới rớt nón mới thấy cái đầu của chú. Đây là một tác phẩm chân phương nhìn vào biết ngay là một con chó nên chú được mọi người yêu mến ghé vào chụp hình lia chia.

Khi tới thành phố Segovia chúng tôi mới thực sự chạm vào lịch sử. Đây là một thành phố nằm trên độ cao một ngàn thước với những cánh rừng thông bạt ngàn bao quanh. Nhìn từ dưới lên thành phố như một con tàu khổng lồ với lâu đài Alcazar là mũi tàu, nhà thờ chính tòa là cây cột buồm và hệ thống dẫn nước cổ xưa aqueduct là những cánh buồm. Ba công trình này là ba niềm tự hào của thành phố. Du khách tìm tới đây cũng chỉ vì những dấu tích cổ xưa này.


Hệ thống dẫn nước thời La Mã aqueduct ở Segovia.

Du khách thích thú nhất với aqueduct chắc phải là ông Võ Kỳ Điền. Vừa tới khu dẫn nước được xây dựng từ thời hoàng kim của đế quốc La Mã này, ông nhà văn họ Võ đã muốn…xỉu! Bao nhiêu năm đọc sách, nghiên cứu về công trình tuyệt diệu này, nay mới được coi tận mắt, sờ tận tay làm chi mà không ngẩn ngơ. Ông chạy tới ôm một cây cột được ghép bằng những tảng đá lớn chồng lên nhau, nhờ tôi chụp hình. Với giọng tỉnh bơ, ông kể: “Ngày xưa tôi là một tên lính vác đá xây dựng công trình này đấy ông ạ!”. Tôi nghe và nhìn vào mặt ông, chỉ sợ ông thăng lúc nào không biết! Phải công nhận hệ thống dẫn nước dùng cho toàn thành phố với chiều cao 28 thước rưỡi trên nền móng được đào sâu tới 6 thước, dài 726 thước mang nước từ sông Fuenta Fria nằm gầndãy núi Guadarrama, cách thành phố những 17 cây số, tới Segovia, được lắp ghép bằng 20.400 khối đá tảng là một quần thể vĩ đại. Ngày đó, cuối thế kỷ thứ nhất đầu thế kỷ thứ hai sau công nguyên, họ dùng phương tiện nào để mang những tảng đá chồng chất lên nhau tạo thành 120 cây cột và 166 đường vòng cung mà không trét xi măng, không có bất cứ một chất gì để làm dính những tảng đá với nhau. Ông nhà văn họ Võ chỉ cho tôi những cái lỗ nho nhỏ trên mỗi tảng đá. Tại sao có chúng? Có phải là chỗ bám cho một thứ dụng cụ xốc tảng đá lên? Tôi theo ông Võ Kỳ Điền tới một cây cột đá vuông vức, sờ tay vào khối đá mát lạnh, chắc phải tới chục người ôm không hết vòng mà đầu óc phân vân không hiểu làm sao mà người xưa lại tài tình đến vậy. Máy quay phim, máy hình tíu tít trên tay để cố thu những góc cạnh không thể nào tưởng tượng được do người xưa hoàn thành. Hai anh em tôi đứng ngẩn ngơ một hồi lâu, mắt không rời, chân không muốn bước. Chúng tôi đã tận tay sờ vào lịch sử.


Một đoạn aqueduct ở Segovia


Dựa cây cột gần hai ngàn năm xưa.

Chẳng cứ hai anh em chúng tôi, tất cả các du khách người nào cũng tíu tít quay quay chụp chụp. Mọi người như lạc vào lịch sử. Chẳng thế mà anh Sĩ loay hoay chụp, để chiếc túi xách tay xuống đất, khi rời qua vị trí khác quên lửng mất vật tùy thân. Phải cả gần một tiếng đồng hồ sau, khi máy hình đã no, máy quay đã đầy, anh mới sực nhớ ra chiếc túi. Chiếc túi màu đen mà anh thường nói với chúng tôi là cả gia sản trong đó. Anh nói không ngoa. Trong đó là máy hình loại xịn, máy quay phim, tiền bạc, giấy tờ quan trọng và nhất là passport của hai vợ chồng. Hai chiếc máy anh đã dùng còn dính trên tay không mất. Mớ tiền anh mang theo khá bộn vì phải lo thanh toán tiền chi phí cho cả đoàn, mất thì cũng đành, tiếc có tiếc nhưng tiền bạc là thứ ngoại vật không quan trọng. Hai tấm giấy thông hành thì rắc rối lớn.

Tây Ban Nha là xứ mà du khách được dặn dò luôn luôn phải đề phòng nạn móc túi. Vậy mà một…gia tài nằm khơi khơi trên nền đất mất là cái chắc. Khi phát hiện ra cái túi không còn trên lưng anh Sĩ, mọi người vội chạy tới nơi đồ chừng là anh Sĩ bỏ quên chiếc túi. Không có. Vài người nhanh trí đi lục các thùng rác xung quanh vì nghĩ là kẻ gian chỉ lấy tiền rồi vứt các giấy tờ vào thùng rác. Thấy quân ta đi mở thùng rác, một người bản xứ mới chỉ tới đồn cảnh sát. Vậy mà cái túi đã nằm trong tay cảnh sát. Hú hồn. Cảnh sát hỏi vài chi tiết rồi trả lại với một mảnh giấy ghi tên người nhặt được. Tất cả tiền bạc và giấy tờ còn y nguyên! Theo cảnh sát đó là một ông bán vé số. Anh Sĩ đi tìm ông bán vé số để hậu tạ nhưng ông đã đi về.

Hên không để đâu cho hết. Châu về hiệp phố ở Tây Ban Nha là một chuyện hiếm. Nhưng cái túi “gia tài” của anh Sĩ đã hên ba lần tất cả. Ba lần mất, ba lần tìm thấy lại nguyên con không sứt mẻ. Có lần để quên trên máy bay ở Barcelona, Tây Ban Nha, ba ngày vẫn không thấy tăm hơi, anh phải lên du thuyền. Vậy mà khi đang ở trên du thuyền, máy bay trực thăng đã cõng cái túi ra trả ngay trên du thuyền. Cứ như tài sản…quốc gia! Tôi giỡn với anh Sĩ: “Tôi nghĩ anh nên đổi cái túi thành màu đỏ cho hên, đỡ đau tim!”.

Tây Ban Nha đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế nặng. Chẳng thua kém chi Hy Lạp. Tỷ lệ người thất nghiệp đã đạt tới con số nhức nhối. Nghề bán vé số hình như là một nghề phổ thông. Họ đeo một tấm bảng trước ngực có gắn những chiếc vé số thuộc nhiều loại khác nhau đứng ở những chỗ đông người qua lại. Không rao, không mời mọc, họ như những hình nộm giữa thời tiết lạnh buốt. Ông đi qua, bà đi lại, ai mua thì dừng lại mua. Thấy họ đứng mà thương. Chúng tôi từ xứ lạnh Canada qua, tưởng ngon, ai ngờ cũng te tua. Khi ra phi trường Trudeau, chúng tôi mặc áo lạnh dày cộm dùng cho mùa đông Canada, tưởng sang tới Tây Ban Nha, nơi thời tiết chưa xuống tới độ âm, vào khoảng 10 độ dương, sẽ phải bỏ bớt. Vậy mà dù nai nịt kỹ càng như giữa tuyết giá Montreal cũng vẫn thấy lạnh cóng. Cái lạnh như lạnh từ trong người ra. Lạnh mà buốt. Có lẽ do khí núi. Chúng tôi vẫn đang kề bên dãy núi Pyrénées!

Kinh tế xuống, thất nghiệp nhiều nhưng dân chúng Tây Ban Nha vẫn nhậu nhẹt như chưa hề bị quả đấm của suy thoái. Tiệm rượu ê hề, hầu như mỗi phố đều có. Nhậu hình như là một tập quán không thể bỏ được. Vào các cửa tiệm tạp hóa, quầy rượu chiếm chỗ thượng phong. Rượu rẻ như bèo! Một chai rượu chát giá chỉ hơn một euro! Đúng là thiên đàng của các bợm nhậu. Bợm nhậu không phải là những người nhếch nhác, áo quần xốc xếch. Tôi đã từng thấy, vào một buổi tối, một cặp vợ chồng già, áo lông thú, lẩy bẩy dắt nhau vào tiệm rượu. Đứng ở quầy, kêu mỗi người một ly, một đĩa nhỏ trái olive, uống vội rồi dắt nhau ra. Đứng ở quầy uống giá rẻ hơn ngồi vào bàn. Họ uống, ăn và xả rác dọc theo quầy, dưới sàn nhà. Tiệm nào cũng vậy, trắng xóa những giấy ăn dọc theo chân quầy. Mỗi lần đi tìm tiệm ăn là một lần chúng tôi vất vả. Ít có tiệm có bàn ngồi ăn tử tế. Họ chú trọng bán rượu đứng uống quanh quầy hơn. Tờ thực đơn đưa cho khách có hai giá cho cùng một món. Thoạt đầu chúng tôi không hiểu tại sao. Hỏi thì ngôn ngữ bất đồng. Sau một hồi đàm thoại rất mỏi tay mới vỡ lẽ ra là một giá cho người ăn đứng và một giá cho người ăn ngồi!


Trong một tiệm rượu ở Tây Ban Nha

Tờ thực đơn bằng tiếng Tây Ban Nha là một sự đánh đố rất tức cười cho chúng tôi. Thường thì một bữa ăn bao gồm một món ăn chơi và một món chính. Khách có thể chọn lựa nhiều loại cho mỗi món. Mỗi thực đơn đều có rượu, bia hoặc nước ngọt và món tráng miệng free. Có chỗ có thêm pan (bánh mì) khỏi trả tiền. Giá cho một phần ăn được ghi rõ ràng. Khoảng từ 7 euro tới vài chục euro. Thông thường ăn được thì khoảng 10 euro. Cái nhức đầu là có tiệm ghi pan, có tiệm không. Những ngày đầu, chưa có kinh nghiệm, chúng tôi không để ý tới cái lắt léo này, cứ chúi mũi vào những món ăn được ghi bằng tiếng Tây Ban Nha mà…đoán. Thường thì khi món ăn được mang ra chúng tôi mới biết mình đã kêu cái chi: thịt heo, thịt bò, cá hay mực. Đĩa thức ăn được đặt trước mặt mỗi người, từng đó con mắt xúm vào ngắm nghía, người vừa ý người không vừa ý, cứ như chơi xổ số! Dân Tây Ban Nha rất hiếm người nói được tiếng Anh. Trong các tiệm ăn càng hiếm hơn. Khác với Bồ Đào Nha, rất nhiều người nói được tiếng Anh hay tiếng Pháp. Có lẽ vì tiếng Tây Ban Nha là một trong những ngôn ngữ được nhiều người trên khắp thế giới sử dụng nên họ không cần học thêm ngoại ngữ. Ăn xong, tới màn tính tiền mới hồi hộp. Có khi họ tính thêm tiền bánh mì mỗi người gần 3 euro. Hỏi thì họ mang thực đơn ra làm…bản án. Không có ghi mục bánh mì trong đó. Đôi khi họ mang ra mấy đĩa bánh ăn chơi, quân ta cứ thản nhiên dùng, tưởng là một mục trong thực đơn, ai dè đây là món mang ra để không ăn thì thôi, ăn thì…chém! Cãi tới đâu thì quân ta cũng thua. Chữ nghĩa đâu mà cãi! Về sau, rút kinh nghiệm, đọc thực đơn phải đọc kỹ, có ghi đủ ba thứ pan, vina, postre (bánh mì, rượu, tráng miệng) mới chơi! Còn những thứ bánh linh tinh họ mang ra thì lơ đi. Muốn chắc ăn thì bắt họ dọn đi tức thời!

2

Tôi ngờ rằng Tây Ban Nha mang đậm dấu vết lịch sử hơn Pháp. Đó là lịch sử của những cuộc can qua. Đi tới đâu cũng bị đập vào mắt những thành quách, những vòng rào phòng thủ vững chắc và những con hào sâu khó vượt qua. Thực ra tới bây giờ, khi trở về Montreal, tôi chẳng còn nhớ được là mình đã thấy được bao nhiêu thành quách. Hầu như nơi nào cũng có những dấu tích của chiến tranh từ thời nảo thời nao.

Mảnh đất mà tôi đang đứng đã từng là sân khấu của những cuộc chiến liên tục trong quá khứ. Ngay từ năm 210 trước công nguyên, người La Mã đã đánh chiếm phần đất mà ngày nay là lãnh thổ Tây Ban Nha và cai quản suốt nửa thế kỷ. Thiên Chúa giáo đã lan tới đây ngay từ thế kỷ thứ nhất và hưng thịnh vào thế kỷ thứ 2. Ngôn ngữ, tôn giáo và luật pháp Tây Ban Nha phần lớn bắt nguồn từ giai đoạn này. Vào thế kỷ thứ 5, khi đế quốc La Mã bắt đầu sụp đổ thì các bộ tộc người  Visigoth, Suebi, Vandal và Alan còn lạc hậu đã vượt qua dãy núi Pyrenées tiến chiếm Tây Ban Nha. Năm 415, người Visigoth đã tiếp quản Tây Ban Nha và cải đạo theo Công giáo La Mã. Thế kỷ thứ 8, người Berber theo đạo Hồi từ Bắc Phi đã nhanh chóng xâm chiếm xứ sở này. Đất nước phát triển vững vàng dưới chế độ Hồi giáo. Dân trong vùng đua nhau cải đạo theo Hồi giáo nên tới thế kỷ thứ 10 và 11, số người theo Hồi giáo đã vượt trội hơn Thiên Chúa giáo. Người Hồi giáo đã đưa vào Tây Ban Nha những nét văn hóa đặc sắc truyền thống của vùng Trung Đông và Bắc Phi. Nhiều công trình kiến trúc mang phong cách Hồi giáo còn tồn tại tới ngày nay mà tiêu biểu nhất là cung điện Alhambra. Đầu thế kỷ thứ 11, đế chế Hồi giáo suy yếu khiến Thiên Chúa giáo gây được ảnh hưởng rất lớn. Thế kỷ 12, Hồi giáo phục hồi trở lại. Thế kỷ 13, nhiều vùng Hồi giáo lại rơi vào tay người Thiên Chúa giáo. Người Hồi chỉ còn cứ điểm cuối cùng là Granada. Đế chế Tây Ban Nha trở thành một trong những quốc gia mạnh nhất châu Âu trong thế kỷ thứ 16 và nửa đầu thế kỷ thứ 17 do thương mại phát triển và sự thành công trong việc chiếm các thuộc địa trải rộng khắp Trung Mỹ và Nam Mỹ, Mễ Tây Cơ, phần lớn phía nam Hoa Kỳ, Phi Luật Tân và các vùng láng giềng miền nam nước Ý, đảo Sicile, phần đất ngày nay là các nước Đức, Bỉ, Lục Xâm Bảo và Hòa Lan. Tây Ban Nha là đế quốc đầu tiên được gọi là đế quốc mà mặt trời không bao giờ lặn! Từ trước tới giờ tôi nghĩ câu “mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc” là chỉ đế quốc Anh. Hóa ra đó là Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha được khắp các thuộc địa của họ chính thức dùng làm ngôn ngữ chính đạt tới con số 400 triệu người nói và trở thành tiếng mẹ đẻ phổ biến thứ nhì trên thế giới chỉ sau tiếng Anh.

Tôi cố tóm tắt một cách gọn ghẽ lịch sử đầy biến động của vùng đất tôi đang đặt chân tới để hiểu tại sao xứ sở này lại có nhiều thành quách kiên cố còn tồn tại tới ngày nay. Hết thành lũy này tới thành lũy khác trải dài trước mắt tôi, trên đường di chuyển cũng như khi đứng tại một nơi nào đó trên khắp nước. Cái mà tôi còn giữ được nhiều ấn tượng có lẽ là thành quách nơi vùng Avila. Chỉ khoảng một giờ lái xe từ thủ đô Madrid là tầm mắt chúng tôi đã choáng ngợp với vẻ bề thế của thành quách Avila. Cả một thành phố nép mình trong bức tường thành kiên cố và mỹ thuật chạy dài hai cây số rưỡi với 80 ngọn tháp hình bán trụ và 9 cổng thảnh uy nghi cao lớn. Theo vận nước, thành phố đã trải qua nhiều cuộc can qua. Từ thế kỷ đầu tiên sau công nguyên, Avila theo đạo Thiên Chúa. Từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 11 là thành trì của Hồi giáo. Năm 1090, sau khi người Hồi bị đánh đuổi khỏi Avila, bức tường thành nổi tiếng này mới được xây dựng.

Chúng tôi lăng xăng chạy quanh để cố thu vào máy những hình ảnh của bức tường thành đồ sộ này. Nhưng máy nào thu cho hết được toàn cảnh bức tường chạy quanh thành phố được. Tôi dùng máy quay phim ghi lại một phía tường và tìm góc cạnh đẹp nhất để ghé mặt vào chụp tấm hình mang về khoe với mọi người. Trời mùa đông lạnh buốt. Nằm ở chiều cao 1130 thước trên mặt  biển nên Avila có những cơn gió giật hung hãn mà chúng tôi đang lãnh đủ. Chẳng lẽ đã cất công tới nơi mà Liên Hiệp Quốc công nhận là di sản thế giới từ năm 1985 này lại chịu thua, chúng tôi lên xe tiến tới một ngọn đồi cao bên ngoài thành phố để ngắm toàn cảnh bức tường và thành phố bên trong. Nhìn từ đây phong cảnh thật hùng tráng. Gió cũng…hùng hục đánh bạt cả người. Đứng ngả nghiêng trên đồi thật vất vả nhưng dân chơi coi như chuyện nhỏ. Tôi leo lên tuốt tận đỉnh đồi, chụp một bức hình rất…khí thế với mái tóc bạc tung bay trong cơn lốc. Đã dấn bước tới đây, ai cũng mong muốn được chiêm ngưỡng những ngôi nhà thờ được xây cất theo kiểu gothic cuối thế kỷ thứ 12. Nhà thờ mà cũng…chiến tranh. Trên gác đàn còn có những lỗ châu mai phòng thủ! Tu viện San Thomas được xây cất vào cuối thế kỷ 15 có ngôi mộ của Don Juan, con trai duy nhất của Quốc Vương theo Thiên Chúa Giáo Ferdinand và Hoàng Hậu Issabella.


Trên đồi gió, tường thành quây kín thành phố Avila ở phía sau.

Tôi quen với chàng Don Juan này từ những năm còn học trung học qua vở kịch của Molière và bài thơ của Byron và sau này với vở nhạc kịch opera của Mozart. Nhân vật lịch sử có thật này đã trở thành một huyền thoại trong văn thơ và nhạc. Đó là một anh chàng đào hoa, con vua, lắm bạc nhiều tiền, tán gái số một. Chàng tán đâu là dính đấy và tán không phân biệt giai cấp, không nề hà tuổi tác và giai tầng xã hội. Gọi đó là con người tạp…gái không phải là ngoa. Qua bao nhiêu thế kỷ, cái tên Don Juan tự nó đã có nghĩa là đào hoa. Tôi thật muốn tới ngôi mộ của chàng để cầu mong chàng truyền cho vài bí kíp tuy chẳng biết để làm gì vì thời gian đã ăn nhẫn gần hết đời tôi. Nhưng lực bất tòng tâm. Lê được đôi chân lên tới mộ chàng là việc thiên nan vạn nan. Lượng sức mình, tôi chẳng dại chi mà nghe lời bà Hồ Xuân Hương “mỏi gối chồn chân cũng phải trèo”. Chân cẳng ngày nay dùng để đi và lết chứ không phải để trèo. Đành mang mối tiếc rẻ trong lòng!

Thôi, quên anh chàng lịch lãm mà thân xác còn nằm ở Avila này đi. Chúng ta nói chuyện Granada. Như trên đã viết, đây chính là cứ điểm cuối cùng của người Hồi giáo lúc đạo giáo này suy tàn vào thế kỷ thứ 13. Tới đây mới thấy y chang như vậy. Nơi nào, chỗ nào cũng còn nặng dấu vết Hồi giáo. Khách sạn chúng tôi trú ngụ mang tên Esperia Granada (cái tên đã thấy…Hồi!), nằm giữa phố núi Granada. Chúng tôi phải nín thở khi xe phải leo những đường dốc nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, lót gạch đá mấp mô để đi tìm khách sạn. Nếu không có cô đầm GPS dẫn đường, bảo đảm tìm tới tết Congo cũng không thấy được. Loanh quanh đường núi có lúc hẹp như một đường hẻm trong khu Bàn Cờ, có lúc dốc đứng như từ trời lao xuống, chiếc xe bị trầy trụa hai bên vì những cú đường vòng gắt gao. Nhìn thấy cái tên khách sạn nằm khiêm nhường bên một đường hẻm, chúng tôi mừng hết lớn. Chạm mặt mấy nhân viên quầy tiếp tân, tôi biết ngay đây là một khách sạn có chủ nhân là một người Hồi giáo. Cách trình bày nơi sảnh chính của khách sạn nhỏ xíu mang dáng vẻ Trung Đông. Tủ bàn và ngay cả những chiếc vòi nước trong phòng tắm đều có những hoa văn trang trí kiểu Hồi giáo.

Vứt chiếc va-li vào phòng, tôi tuôn ngay ra đường. Rặt một loại cửa hàng nho nhỏ bán những tấm thảm, những chiếc điếu hút có cần vút lên như chiếc lông công, những đồ kỷ niệm, bàn ghế, nhìn vào biết ngay xuất xứ. Cầm tấm bản đồ trên tay, chưa kịp chỉ tay vào bản đồ, vừa cất lời hỏi bằng tiếng Anh, một cô gái trẻ có đôi mắt to dưới hàng lông mày rậm đen ngắt và chiếc khăn choàng bít kín đầu, chẳng biết có hiểu chi không, đã chỉ tay nói một tràng tiếng Tây Ban Nha. Như một quán tính. Dĩ nhiên tôi không hiểu cô nói gì nhưng nhìn theo tay cô thì thấy ngay tấm bảng hình mũi tên nho nhỏ chỉ đường tới…Alhambra. Tôi nghĩ thầm: sản phẩm chính mà thành phố này trình với du khách chắc chỉ có Alhambra.

Alhambra là một quần thể gồm cung điện và vườn tược đã được Liên Hiệp Quốc liệt vào hàng di sản thế giới. Được bao bọc bởi những khu rừng rậm rạp, quần thể này chiếm một diện tích rộng tới 142 ngàn thước vuông bao gồm những kiến trúc kiều Hồi giáo, Hy Lạp và La Mã, những khu vườn xinh đẹp, những dòng suối nhỏ và một nhà thờ Hồi giáo được bảo vệ bằng 13 tháp canh đồ sộ. Nhìn con đường dốc cao phía trong từ chiếc cổng vào bề thế, tôi bỗng sợ. Leo lên chắc…gẫy chân! Ông Võ Kỳ Điền chắc cũng teo nên khi tôi ngỏ ý chỉ cố leo lên khu vườn gần nhất rồi ngồi phè ngắm cảnh, ông ấy bằng lòng ngay tức thì. Những người…trẻ thì nhất định quyết thi gan cùng đèo cao núi lớn dõng dạc leo. Ông nhà văn họ Võ và vợ chồng tôi ngồi trên những chiếc kè đá cổ xưa, rong rêu, sứt mẻ, nói chuyện về…Granada. Tôi nhớ mài mại cung điệu của một bài hát mang tên Granada đã được nghe nhiều lần hồi năm xưa. Thầm bắt giọng bài hát mà câu được câu không. Tức quá chừng. Nhưng  tôi nghĩ là nhất định bài hát phải có giây mơ rễ má với nơi tôi đang ngồi. Để tính sau. Vừa về tới Montreal, tôi tính liền. Tôi vào mạng tìm. Y chang! Đó là bài hát đã được danh ca Frank Sinatra diễn tả rất tới. Vậy là trí nhớ cùng mằng của tôi không phản bội tôi. Bài hát được Agustin Lara sáng tác từ năm 1932 nguyên tác bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi tìm được lời bản nhạc nhưng vốn liếng tiếng Tây Ban Nha của tôi chỉ có mỗi chữ hola mới học mót được làm tôi bâng khuâng. Đành phải theo lời dịch tiếng Anh của chàng ca sĩ Frank Sinatra. Đọc lời mới biết đây là một bản tình ca. Những nuối tiếc của một mối tình nảy nở ở Granada nay đã trở thành dĩ vãng.

The dawn in the sky
Greets the day with a sigh
For Granada
For she can remember
The splendor that once was
Granada.

Ông Võ Kỳ Điền chỉ biết nhạc Việt Nam nên khi ngồi với tôi ở khu vườn rêu phong cổ kính trong khuôn viên Alhambra, ông tỉnh bơ. Tuồng như chẳng thấy thú vị chi với hồi ức của tôi. Muốn ông ấy say sưa nói thì nên đề cập tới…cây cỏ. Quen ông bao nhiêu năm tôi chẳng để ý là ông chuyên nghiên cứu về thực vật. Ông hay than đời ông chẳng ra làm sao. Tôi nghĩ nếu ông chuyên nghiên cứu về…động vật chắc khá hơn! Trong những ngày hai anh em lang thang từ thành phố nọ tới thành phố kia ở đất nước Tây Ban Nha, ông chỉ cho tôi cây ngô đồng.

Tôi chỉ biết cây ngô đồng qua văn thơ nên rất thú vị khi tận mắt nhìn cây ngô đồng. Ông Võ say sưa nói về ngô đồng làm như thể kiếp trước ông là cây ngô đồng không bằng! Cây ngô đồng đầu tiên ông chỉ cho tôi là một gốc cổ thụ trong vườn của cung vua Royal Palace ở thủ đô Madrid. Thân cây ngô đồng cổ thụ này chắc phải tới năm người ôm mới kín vòng. Nhìn thân cây, tôi xì một tiếng: “Trông có khác chi thân cây ổi đâu!”. Chắc ông bạn nhà văn chán cho cặp mắt trần tục của tôi lắm. Trong văn thơ cây ngô đồng là một loại cây quý phái, hoa của nó thuộc loại “vương giả chi hoa”, vậy mà nhìn ra cây…ổi chẳng văn thơ chút nào. Nhưng ông ấy lại phê lời tôi nói là đúng. Vỏ cây khá giống vỏ thân cây ổi. Ngô đồng mọc đầy rẫy ở Tây Ban Nha.

Cứ trong thơ văn thì đây là một loại cây quý.  Cổ thi Trung Hoa đã ca ngợi:

Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.

Một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu sang. Ngô đồng là thứ cây…tiên tri. Cứ thấy lá ngô đồng rụng là biết mùa thu đã tới thềm cửa. Cứ chi cây ngô đồng, cây nào mùa thu mà lá chẳng rụng! Nhưng lá cây ngô đồng rụng được các văn nhân cảm thấy nỗi buồn man mác của cảnh biệt ly. Cây ngô đồng còn được các ông xếnh xáng xưa cho là cây thần. Ông Võ Kỳ Điền kể lại trong một bài viết về cây ngô đồng: “Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa trời đất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên Điạ Nhơn. Đoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là Dao Cầm”. Cây Dao Cầm huyền diệu này khi cất tiếng lên thì chim phượng hoàng bay tới đậu. Tác giả mấy câu ngợi ca ngô đồng này nói nhỏ với tôi: “Mấy ông Trung Quốc ngày xưa  vẽ chuyện chứ chỉ có cây ngô đồng thì làm đàn bằng gỗ ngô đồng chứ có gỗ chi khác đâu mà bày vẽ!”.

Theo gót mấy anh Trung Hoa, văn chương Việt Nam cũng cứ ngô đồng mà…tán. Như trong truyện Kiều: Thú vui thuần hức bén mùi / Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. Như trong Bần Nữ Thán: Bắc thang tới cung mây mà hỏi / Biết bao giờ phượng tới cành ngô. Như trong Bích Câu Kỳ Ngộ: Bóng trăng vừa xế cành ngô / Giấc hòe dìu dịu, chăn cù êm êm. Gần chúng ta nhất, cây ngô đồng nhảy vào thơ Bích Khê: Ô hay buồn vương cây ngô đồng / Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông. Thấy nhiều nên cây ngô đồng đối với tôi chẳng có chi quý giá. Nhưng người xưa rất quý hóa loại cây này. Nó là thứ gỗ tạo nên con ngựa thành Troie nổi tiếng trong sử sách. Và nó được vua Minh Mạng cho khắc hình trên Dụ đỉnh trong bộ Cửu Đỉnh nơi kinh thành Huế. Phải tới khi chúng tôi di chuyển đến thành phố Burgos cũng của Tây Ban Nha thì tôi mới thấy hết vẻ đẹp của cây ngô đồng. Ngay trước khách sạn AC Burgos, nơi chúng tôi trú ngụ, là một con đường toàn ngô đồng trụi hết lá. Cây giao nhau làm thành một vòm cổng trong suốt đoạn đường dài. Đặc biệt là họ chiết cho cành cây giao nhau, cây nọ nối cây kia làm thành một hàng dài như những cánh tay  giơ lên giữa bàu trời xám của mùa đông. Không biết họ uốn nắn ra sao mà những cành cây của hai cây cạnh nhau nối dính vào nhau như một cành độc nhất. Tất cả hàng cây một bên đường đều được nối dính vào nhau như vậy. Tôi chưa từng thấy vẻ đẹp lạ lùng của cây như vẻ đẹp của ngô đồng tại đây ở bất cứ một nơi nào khác.


Vòm cây ngô đồng ở Burgos

Sẵn nói về cây, Tây Ban Nha còn là đất của cây olive. Olive được trồng thành từng hàng như đoàn quân diễn hành trên khắp các đỉnh núi hai bên xa lộ nối liền các thành phố với nhau. Bát ngát rừng cây olive. Vậy nên dân nhậu ở Tây Ban Nha mới dùng trái olive làm chuẩn để đưa chất cay. Vào bất cứ tiệm ăn nào, trên bàn cũng có chai dầu olive. Người ta ăn bánh mì chấm dầu olive. Tôi cũng thử làm như dân Tây Ban Nha. Ngon thật. Nó làm dịu đi miếng bánh mì trong miệng. Trái olive, dầu olive, chẳng biết còn thứ gì có dính tới olive nữa không. Sự tràn lan của dầu olive làm tôi nhớ tới câu than thở của một ông nhà vườn ở miền Provence nước Pháp. Ông chủ căn nhà tôi thuê vào mùa hè vừa qua ở miền Nam nước Pháp có một vườn olive ngay kế bên nhà. Vườn khá rộng. Trong nhà kho, tôi còn thấy những đồ nghề ép dầu olive nay đã bỏ phế. Ông than thở là bây giờ dân Tây Ban Nha trồng olive nhiều nên họ phá giá dầu làm ông phải ngưng sản xuất. Nhìn bạt ngàn olive trên núi Tây Ban Nha tôi thấy ông già miền Provence của Pháp bị đè bẹp dúm là phải. Điều trớ trêu là lá cây olive kết thành vòng tròn được coi như tượng trưng cho hòa bình!

Nói tới ngô đồng và olive thì phài nói tới cây cam. Trên đường phố của thủ đô Madrid, người ta trồng hai bên đường những cây cam cảnh. Thân cây cao chừng hai thước, lá và trái mọc thành từng tán trên đỉnh cây. Khi xe vào thành phố, chúng tôi thích thú ngắm những trái cam vàng chín trên cây. Bộ dân chúng ở đây không biết ăn cam hay sao mà thành phố khơi khơi trồng cam bên đường. Cây nào cây nấy đỏ au trái trông chỉ muốn hái. Vậy mà chẳng có ai hái. Khi thấy một trái chín mõm rụng dưới gốc cây, một bà trong đoàn du lịch mới nhặt mang về khách sạn. Ngày hôm sau bà cho biết kết quả…thí nghiệm: cam rất nhiều nước nhưng chua lè ăn không nổi!


Cam và hoa cải bắp trồng trên vỉa hè thủ đô Madrid.

Cây cối trong khu công viên Retiro Park ở Madrid cũng được làm dáng tới bến. Những hàng thông được cắt tỉa đẹp đẽ theo nhiều hình thể thì hầu như nơi nào cũng có. Nhưng uốn tỉa cây thông thành một bộ óc khổng lồ thì tôi mới thấy lần đầu. Cũng là sáng kiến của một…bộ óc! Trên những luống hoa chạy dài tít tắp trong công viên là một thứ hoa lạ mọc thấp lè tè sát mặt đất. Nhìn từ xa thì đó là một dải màu sắc đẹp. Có hai màu: tím và trắng. Khi trồng riêng từng màu, khi pha trộn hai màu. Tới gần mới thấy đây là hoa…cải bắp! Vâng, đúng là thứ cải bắp trong các siêu thị mà chúng ta mua về làm bếp. Y chang như vậy nhưng hoa thì lần đầu tiên tôi mới thấy. Nó nằm gọn trên lá trông như một bát xôi. Mới có một tuần mà coi bộ ai cũng thèm…xôi! Thế mới biết cái miệng khi đã được thuần hóa thì…thèm quá. Chẳng thế mà khi về tới Toulouse bên Pháp, tìm trong GPS thấy một lô nhà hàng phở Việt Nam, tôi hỏi lớn có ai đi ăn phở không thì không có tiếng trả lời. Người nào cũng bận nuốt nước miếng!

3

Thủ đô của Tây Ban Nha là Madrid. Trái tim của Madrid là công viên El Retiro. Tôi mù tịt tiếng Tây Ban Nha nhưng nghe chữ retiro thấy quen quen. Quen là phải vì bây giờ mình cũng đang retiro. Retiro là cách nói gọn, thực ra cái tên của công viên này lằng nhằng hơn nhiều. Parque del Buen Retiro. Công viên hưu trí vui vẻ. Chúng tôi toàn những người hưu trí đang rong chơi thì vui vẻ là cái chắc. Vậy nên vừa đặt chân tới thủ đô Tây Ban Nha là chúng tôi nhào ngay tới công viên…nhà! Nghe có vẻ ấm cúng nhưng thực ra công viên này rộng tới gần một cây số vuông rưỡi. Vườn Tao Đàn của Sài Gòn năm xưa cũng là trái tim của thành phố nhưng trái tim đó nho nhỏ, thân tình hơn nhiều. Tôi nhớ ngay tới vườn Tao Đàn vì đó là nơi tôi đã được tái sinh. Khi tôi được thả ra từ trại tù gọi là cải tạo của cộng sản, đoàn xe đổ chúng tôi xuống vườn Tao Đàn. Chúng tôi nhận được những thân tình của đồng bào cảm động đến chảy nước mắt. Lúc đoàn xe chạy qua bùng binh chợ Bến Thành trước khi vào vườn Tao Đàn, thấy trên xe là những thân tàn ma dại thân thương, đồng bào đã ngước nhìn lên, không ai bảo ai họ túa ra chạy theo đoàn xe. Khi xe vừa dừng nơi con đường giữa công viên, nối từ đường Nguyễn Du qua đường Hồng Thập Tự, chúng tôi xuống xe và bị bao vây bởi rừng người mắt đỏ hoe, tặng chúng tôi tất cả vốn liếng của một ngày buôn thúng bán mẹt: những củ khoai, khúc mía, bánh mì, trái cây. Công viên lúc đó như đang trong một ngày hội. Ngày hội tội nghiệp của những đùm bọc trong nghịch cảnh. Tôi lách ra phía cổng đường Hồng Thập Tự, một bác xe ôm trờ tới kêu tôi lên xe. Hai chúng tôi nói chuyện như hai người thân từ thuở xa xưa. Khi xuống xe ở Thị Nghè, tôi gõ cửa nhà để lấy tiền trả, anh xe ôm vội quành xe, nói với lại: “Các thầy về là mừng rồi, tiền bạc chi!”.

Đứng giữa El Retiro nhớ Tao Đàn, tôi bần thần nhìn mặt hồ trong công viên. Một thanh niên tới giơ ra một tờ giấy và một cây viết nói với tôi bằng tiếng Anh mời ký tên để hỗ trợ cho người tàn tật. Đằng sau và bên cạnh tôi có ba bốn thanh niên khác, cả trai cả gái, tay cũng cầm tờ giấy và cây viết như nhau. Đứng cách xa tôi chừng hai thước, họ chăm chú theo dõi. Tôi đề phòng ngay. Kéo chiếc túi đeo về phía trước, tôi từ chối không ký. Anh thanh niên làm ra vẻ ngạc nhiên: “Chỉ ký ủng hộ những người tàn tật mà ông cũng không ký sao?”. Tôi lắc đầu bỏ đi. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, tôi gặp lại họ. Năm sáu người đi chung với nhau. Nhìn thấy tôi, mấy cô gái chỉ chỏ nói huyên thuyên như trêu ghẹo. Thấy tôi trừng mắt nhìn lại, chúng lên tiếng chửi bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi đoán đó là những câu chửi qua thái độ hung hăng và cách phát âm của họ chứ họ chửi thì họ nghe, tôi…điếc!

Đó là lần duy nhất tôi gặp bọn cướp giật trong một đất nước nổi tiếng thế giới về nạn trộm cắp. Kể cũng là may. Quẳng gánh…tức giận đi và vui sống, tôi lang thang trong công viên thưởng lãm các tác phẩm điêu khắc rải rác khắp chốn, chụp hình mặt hồ lặng lẽ, viếng các bảo tàng viện và các cuộc triển lãm. Dọc theo các lối đi là các người bán rong bày hàng trên những miếng ni-lông chào mời khách. Phần lớn là những món hàng kỷ niệm. Tôi để ý quan sát cách họ trải miếng ni-lông bày hàng hóa. Bốn góc là bốn múi dây cột chéo được thắt nút ở giữa miếng vải ni-lông để khi cần thu dọn chỉ cần nắm vào chiếc nút dây ở giữa là hàng hóa dồn vào hết miếng vải, đeo gọn trên vai và…tẩu! Bộ đây cũng có cảnh sát đi dẹp sao? Chắc không phải. Gần đó là hai ông cảnh sát cỡi ngựa đứng nhìn khách qua lại. Hình như nhiệm vụ chính của họ là cười mỗi khi có du khách xin chụp hình chung với…ngựa! Những người bán hàng phần lớn có nước da ngăm ngăm đen không phải dân bản xứ. Nhiều người còn bán hàng lưu động đeo toòng teng những vòng tay, vắt vai những miếng vải nhiều màu sắc của các xứ Phi Châu. Tôi gặp một người lang thang như vậy. Anh mời tôi mua hàng, tôi lắc đầu. Anh lân la nói chuyện và cho biết anh người xứ Senegal qua du lịch rồi trốn ở lại luôn. Anh lấy một chiếc vòng làm bằng những hạt gỗ đeo vào tay tặng tôi. Anh nhấn mạnh thấy thích thì tặng chứ không lấy tiền. Nhưng tôi cũng tặng lại anh một euro. Anh cám ơn bằng câu nói: “Tôi sẽ uống một ly cà phê!”.

Trong El Retiro có một nơi du khách phải tới. Đó là Crystal Palace. Cung điện pha lê. Nghe chữ cung điện tưởng nơi ở cao sang của vua chúa chi đây. Nhưng không phải. Đó là một kiến trúc chỉ có chiều cao, cao tới hơn 22 thước rưỡi nhưng diện tích thì không bao nhiêu, thông thống chỉ có một phòng duy nhất. Được xây dựng chỉ trong vòng 5 tháng vào thập niên 1980, thoạt kỳ thủy đây chỉ là một nhà kính để trồng các loài hoa mang từ Phi Luật Tân tới. Đứng từ ngoài nhìn vào thì đây chỉ là một tòa nhà làm toàn bằng kính trắng với một bộ khung bằng thép, các mái vòm và cửa sổ chiếm hết chung quanh. Vì làm bằng kính nên cung điện chỉ đẹp khi có ánh mặt trời phản quang tạo nên những màu sắc lung linh huyền ảo. Khi chúng tôi tới, mặt trời trốn mất tiêu, chẳng có phản quang chi nên trông khá tầm thường. Theo tài liệu thì bây giờ cung điện là một bảo tàng nghệ thuật hiện đại với những kiệt tác về kiến trúc và hội họa ngày nay. Nhưng đó chỉ là trên tài liệu. Trước mặt tôi là căn phòng trống huếch trống hoác. Giữa những chiếc cột ở giữa phòng có giăng những sợi dây như dây gai màu ngà. Nhìn vào tôi thấy như một thứ rào ngăn không cho du khách đi vào khu trung tâm căn phòng. Phía trong hàng dây gai chỉ có…hư vô! Đó là nghệ thuật hôm nay chăng? Tôi thấy một ông ngồi trên một chiếc bàn ở góc phòng, ngó bộ như một nhân viên chỉ dẫn, tôi hỏi bữa nay không có trưng bày nghệ thuật chi chăng. Ông bảo có. Thấy bộ mặt ngẩn ngơ của tôi, ông chịu khó giải thích. Trước hết ông chỉ ngay vào một tấm thảm cói bên cạnh chân ông mà tôi nghĩ là tấm thảm chùi giầy. Ông hỏi tôi có thấy chi không. Chẳng lẽ nói không để lộ cái dốt nghệ thuật của mình, tôi ngậm câm. Ông kéo tôi nhìn xuống và chỉ một hột trăng trắng chỉ nhỏ bằng một hột xoàn cỡ khiêm nhượng trên chiếc nhẫn mấy bà đeo trên tay. Tôi gật gù mà chẳng biết đây có phải hột xoàn không. Xong ông chỉ tay về phía mấy sợi dây gai và nói tôi tới coi ở chính giữa múi cột. Tôi tới và thấy một hột khác y chang như hột trên thảm. Nếu ông không chỉ thì chắc tôi chẳng thấy. Ông gật gù ra cái điều…nghệ thuật. Tôi cũng gật gù và cám ơn ông.


Cung điện pha lê Crystal Palace lấp lánh về đêm.

Thấy chiếc cầu thang bằng cẩm thạch dẫn xuống từng dưới, tôi tò mò bước xuống tưởng còn nghệ thuật dấu dưới đó. Hóa ra chỉ có toilet! Coi bộ có ích hơn nghệ thuật, tôi bước vào. Bên trong sạch bóng, thơm tho. Kể cũng khoan khoái vì nghệ thuật! Phải công nhận toilet ở xứ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha văn minh hơn bên Pháp nhiều. Từ các nhà hàng ăn tới các trạm nghỉ bên xa lộ, từ các shopping mall tới các cửa hàng ngoài phố, chỗ nào toilet cũng sạch sẽ thơm tho và chẳng chỗ nào có bà đầm to béo ngồi thu tiền ở phía trước như bên Pháp.

Madrid, nói đúng hơn là Tây Ban Nha, có ba…đặc sản. Thứ nhất là đấu bò. Đây là môn thể thao mà người dân Tây Ban Nha rất tự hào. Nhưng nói thật tôi không cảm được trò chơi nhiều máu me này. Có cảm chăng là cảm…con bò. Tôi thích cái dáng của bò khi tranh đấu với người trong một cuộc đấu thường là không cân sức. Bò như là một vật tế cho những chàng trai trẻ ăn mặc diêm dúa, màu mè tay cầm vũ khí đâm tuôn máu những chú bò bị dồn vào một vị thế hết sức bất lợi. Dù không ưa nhưng tới Madrid cũng phải ngó tới trò chơi đặc biệt Tây Ban Nha này. Trên xa lộ, thỉnh thoảng xe lại chạy qua một tượng con bò tót đứng tuốt trên đình cao của núi. Thấy cái dáng oai phong của bò, tôi mở sẵn máy hình, chỉ chực bấm vài pô chắc sẽ phải đẹp. Nhưng khi tới gần mới thấy mấy chú bò oai phong giữa khung cảnh thiên nhiên chỉ là những tấm ván cắt theo hình bò chứ chẳng phải tượng đài chi cả. Bèn cất máy hình đi. Báu gì những thân bò mỏng dính như tờ giấy này.

Tới Madrid, tôi cũng mò tới được sân đấu bò. Ban ngày, không phải ngày nghỉ, đâu có đấu đá chi. Mà có đấu chắc tôi cũng đứng ngoài ngó suông vào sân đấu kín mít vì nghe nói giá vé rất mắc. Trước sân đấu là tượng hình các dũng sĩ của môn thể thao này. Nhìn chàng nào cũng giống nhau, có biết chàng nào với chàng nào đâu. Thôi thì đã tới đây thì cũng bấm vài kiểu ảnh cho ra cái điều mình cũng đã cưỡi…bò xem hoa! Mãi tới một lần đi dọc theo một con lộ ở trung tâm thành phố Burgos, tôi mới gặp được tượng một chú bò ra vẻ chú bò. Bèn bấm lia lịa chiếc máy hình lúc nào cũng dính theo người.

Món đặc biệt thứ hai là điệu vũ flamenco. Chắc nhiều người trong chúng ta đã từng…giật giật với vũ điệu đặc trưng Tây Ban Nha này. Nó đã trở thành một vũ điệu quốc tế. Một nghệ sĩ flamenco nổi tiếng, vũ công Carmen Linares, đã tự hào: “Để hiểu thấu đáo về nó là điều không dễ dàng gì, thế nhưng vũ điệu này lại giúp con người ta tìm được sự đồng cảm. Khi đi biểu diễn ở ngoại quốc, tôi biết có những người không hiểu lời ca tôi đang hát nhưng họ vẫn có thể rung cảm với giai điệu và cảm nhận được mối liên hệ trong tâm hồn với những người xung quanh. Flamenco giống như chính cuộc sống, chúng tôi hát về tình yêu, hạnh phúc, nỗi thống khổ, về tất cả những gì con người từng trải qua trong cuộc đời”. Cái tạo nên flamenco là tiếng đàn tây ban cầm, tiếng vỗ tay và tiếng đập vào thành đàn. Và người vũ nữ với chiếc váy nhiều lớp bồng bềnh theo tiếng nhạc và tiếng dậm chân xuống sàn nhảy. Tôi cứ tiếc mãi cho tới bây giờ là không được tham dự một show flamenco nào trong thời gian lưu lại xứ sở của tiếng nhạc dậm dựt nhộn nhịp. Kể ra tôi cũng có thấy vài tấm bích chương quảng cáo trình diễn nhạc flamenco nhưng những di chuyển dồn dập không cho phép tôi dừng chân nghe nhạc. Hầu như tại tất cả các cửa hàng bán đồ lưu niệm đều có những tượng vũ nữ và vũ nam múa flamenco. Đủ kiểu, đủ cỡ, đủ màu sắc và đủ giá tiền. Flamenco réo rắt nhờ tiếng đàn guitare. Dân Việt ta dịch rất đúng là “tây ban cầm”. Y chang là cây đàn của Tây Ban Nha. Cây đàn này đã phổ biến khắp thế giới. Tại quê hương bản quán của nó thì tây ban cầm còn được tôn sùng hơn. Cửa hàng nào cũng thấy. Gọi đó là đặc sản Tây Ban Nha là đúng chỉ số!

Đặc sản thứ ba là bóng đá. Tại miền nam trước đây chúng ta gọi là “bóng tròn” hay “túc cầu”. Đây là môn thể thao vua ở Tây Ban Nha. Đội tuyển Tây Ban Nha hiện đang giữ chức vô địch thế giới World Cup được tổ chức tại Nam Phi sau khi đá bại Hòa Lan trong trận chung kết vào ngày 11 tháng 7 năm 2010. Vào bất cứ một tiệm ăn, quán nhậu ở bất cứ thành phố nào, chiếc màn hình cũng rặt một thứ đá banh. Không có một chương trình nào khác. Từ những ngày xưa còn bé tôi đã biết tới đội bóng Real Madrid của Tây Ban Nha. Đội banh này đã có trên 100 năm lịch sử. Được thành lập vào năm 1902, đội bóng mang tên Real có nghĩa là “hoàng gia” đã được vua Alfonso XIII tặng logo vương miện hoàng gia mà ngày nay vẫn còn được gắn trên chiếc áo thi đấu màu trắng truyền thống của đội. Năm 2011, Real Madrid có số thu nhập khổng lồ 438,6 triệu euro. Real cũng là đội bóng đắt giá nhất thế giới với tổng trị giá là 1,4 tỷ euro. Ngoài Real Madrid, Tây Ban Nha còn hai đội bóng sừng sỏ nữa là BarceloneAthletic Bilbao. Ba đội bóng này là ba đội mạnh của giải bóng đá Âu châu.

Không biết có thể gọi là “đặc sản” không chứ tháp chuông nhà thờ ở Tây Ban Nha hầu như lúc nào cũng ở trước mắt dù lang thang trong bất cứ thành phố nào hay di chuyển trên đường…cái quan. Thành phố Montreal của tôi cũng nhiều nhà thờ, các tên đường cũng rất…thánh, hết saint ông đến sainte bà, nhưng mức độ to lớn và cổ kính thua xa các nhà thờ xứ…Tây. Ngôi nhà thờ cổ nhất mà tôi thực sự ngửi thấy mùi thời gian phải là nhà thờ chánh tòa Porto của Bồ Đào Nha. Được xây cất từ thế kỷ 12, bên ngoài cũng như bên trong giáo đường hầu như còn giữ nguyên như từ chục thế kỷ trước. Ngàn năm sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt làm khách viếng thăm thấy sức nặng của thời gian đè bẹp trên người. Thăm thú tỉ mỉ từng góc cạnh, trước khi rời nhà thờ tôi mua vài tấm postcard nơi chiếc bàn cổ kính nằm trong góc tối tăm phía cuối nhà thờ với cô bán hàng trông cũng cũ kỹ như khung cảnh xung quanh.

Ngôi nhà thờ lớn và nguy nga nhất mà du khách phải bỏ ra 7 euro mua vé vào thăm là nhà thờ chánh tòa Burgos. Dân ăn tiền già thì chỉ mất có 6 euro thôi, kể ra cũng là điều an ủi cho những người chậm chân chậm mắt! Không cần kể ra sự lớn lao như thế nào, chỉ cần biết là phải mất ba thế kỷ rưỡi người ta mới xây cất xong. Trên phương diện kiến trúc và thẩm mỹ, đây là một tác phẩm vô tiền khoáng hậu, nhưng nếu coi đây là một nơi để thờ phượng thì cần chi người ta phải tốn công tốn của đến như vậy. Thánh đường Burgos được xây bằng đá vôi trắng có phong cách kiến trúc Gothic điển hình nhất. Đứng từ ngoài nhìn vào thì đây là một quần thể…chọc trời với những đỉnh tháp vươn thấu trời xanh trông như những mũi kiếm dựng thẳng. Nhà thờ chánh tòa Burgos  là một trong ba nhà thờ lớn nhất Tây Ban Nha, được khởi công từ năm 1221 và hoàn tất năm 1567. Tính ra là 346 năm!


Nhà thờ chánh tòa Burgos xây cất trong 346 năm.

Chúng tôi đã mất một tiếng rưỡi để chỉ đi phớt qua khắp bên trong nhà thờ. Vậy mà cũng mỏi cổ quá trời vì trần nhà thờ quá cao và các chi tiết, đường nét ở trên cao được ánh nắng rọi vào qua các vuông cửa sổ lấp lánh màu sắc thật tuyệt diệu. Nếu coi kỹ từng chi tiết chắc mất nguyên ngày. Gọi là nhà thờ khiến người ta hình dung ra một không gian duy nhất mà linh mục hành lễ cho giáo dân coi. Nhưng thánh đường này là một quần thể kiến trúc có rất nhiều ngóc ngách, phòng ốc riêng rẽ như trong một lâu đài cổ. Khi vào cửa, mỗi người được phát cho một máy nghe đeo lủng lẳng trên ngực. Du khách sẽ được hỏi dùng ngôn ngữ nào để lấy máy nói đúng ngôn ngữ mình muốn. Tôi không biết có bao nhiêu thứ ngôn ngữ được dùng cho các máy nghe vì đoàn chúng tôi chỉ chọn tiếng Anh và tiếng Pháp. Trong nhà thờ được chia ra làm 32 trạm dừng, máy nghe cũng có 32 đoạn. Du khách có thể bấm đi bấm lại để nghe sự tích từng chặng. Tôi cứ loáng thoáng nghe và lướt qua thôi. Nhưng tôi thấy có nhiều người ngồi nghiêm chỉnh nghe mỗi chặng, chẳng biết họ mất bao nhiêu thời gian. Chặng tôi chú ý nhất là chặng thứ 15, nơi có mộ chôn người anh hùng Le Cid.

Tôi quen chàng này qua vở kịch Le Cid của Corneille từ thời trung học. Không hiểu hồi đó ông giáo dạy Pháp văn của tôi “trình diễn” Le Cid hay đến thế nào mà bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu khích lệ của ông cha Don Diègue nói với ông con Don Rodrigue: “Rodrigue, as tu du coeur?”. Don Rodrigue trong kịch bản chính là Rodrigo Diaz de Vivar, một anh hùng của Tây Ban Nha, được gọi là El Cid,  có nghĩa là “Chúa Công”. Ông sinh năm 1043 và mất năm 1099. Quê quán tại Vivar, một tỉnh nhỏ ở gần Burgos. Đó là lý do tại sao thi hài ông được chôn tại nhà thờ chánh tòa Burgos. Mộ của ông là một mặt đá quý nằm bằng phẳng với nền nhà thờ được quây quanh bằng những cột có giăng dây màu đỏ.  Trong hai chặng khác trong nhà thờ, tôi đã thấy một bản chép tay kịch Le Cid và một chiếc rương đựng vật dụng của ông. Chiếc rương được treo cao trên tường trông đen xì nên chẳng biết được làm bằng chất liệu chi.


Bên mộ người anh hùng Le Cid.

Le Cid của Corneille rất phổ biến ở Việt Nam chúng ta. Ngoài những bản dịch nguyên văn kịch bản ra tiếng Việt, văn học Việt Nam còn có những tác phẩm “ăn theo” chuyện chàng anh hùng đẹp trai của lịch sử Tây Ban Nha. Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị ở Huế đã phỏng theo Le Cid để soạn thành vở tuồng “Lộ Địch”. Cụ cho biết lý do khiến cụ phóng tác thành tuồng ta vở kịch này: “Sự tích tuồng Le Cid có đủ trung, hiếu, tiết, nghĩa, nên tôi xét có nhiều điểm rất hợp với tinh thần luân lý Á Đông…Kịch Pháp có thể dung hòa phần nào với tuồng ta: đó là lý do khiến tôi phỏng theo Le Cid mà diễn tuồng Lộ Địch”.

Cụ Hồ Biểu Chánh ở miền Nam lại…ăn theo Le Cid kiểu khác. Cụ soạn thành truyện thơ. Đó là truyện thơ “Vậy Mới Phải” được cụ hoàn tất vào năm 1913. Tôi đã cố tìm kiếm truyện thơ “Vậy Mới Phải” này mà không kiếm ra. Thật ra văn nghiệp của Hồ Biều Chánh nặng về tiểu thuyết, cụ đã trước tác tới 64 cuốn tiểu thuyết, nên phần thơ và truyện thơ chỉ có 5 cuốn không được chú trọng lắm. Cụ sáng tác trong thời kỳ phôi thai của văn học bằng quốc ngữ nên trong các tác phẩm của cụ có rất nhiều phóng tác theo truyện của các tác giả Pháp. Chính cụ đã nói: “Đọc tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn, hễ tôi cảm thì tôi lấy chỗ cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều hoặc tách riêng ra mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt Nam”.

Tôi thật tiếc không được biết anh chàng El Cid đang nằm dưới ngôi mộ xa xôi tận bên Burgos mà tôi đang đứng cạnh đây đã đổi lốt thành anh chàng Lộ Địch Việt Nam ra sao dưới ngòi bút của một tác giả Việt Nam!

4

Âu Châu được phân chia thành hai phía riêng biệt bằng biển Manche nằm giữa nước Anh và nước Pháp. Một bên là lục địa rộng lớn gồm phần lớn các nước Âu châu và bên kia là một hòn đảo gồm Anh, Tô Cách Lan và Ái Nhĩ Lan. Hai bên không thuận hòa nhau lắm tuy đoạn biển ngắn nhất giữa Anh và Pháp cách nhau chẳng bao xa. Đó là eo biển Pas de Calais. Có một chuyện khôi hài nói lên sự thiếu thuận hòa này. Hai ông, một Anh một Pháp, nói chuyện với nhau. Ông người Pháp móc ông người Anh: “Dân Anh các ông hay nói khôi hài nhưng từ khôi hài tới lố bịch chỉ cách nhau một bước!”. Ông người Anh căm tức nhưng vẫn tỉnh bơ phán bằng tiếng Pháp: “ Oui, c’est le Pas de Calais!”. Tiếng Pháp “pas” vừa có nghĩa là eo biển, vừa có nghĩa là bước!

Vậy thì sơn hà đã hai cõi phân chia rành rọt thì tại sao lại có Gibraltar? Gibraltar nằm ngay sát phía Bắc Tây Ban Nha nhưng lại là lãnh thổ của Anh. Nó nhỏ chút xíu chứ đâu có bõ bèn chi cho một đế quốc đã có hàng bao nhiêu thuộc địa trải dài từ Phi Châu qua Á châu, Úc châu. Vỏn vẹn chỉ có 6,8 cây số vuông mà hầu hết là vùng núi non. Nói Gibraltar chỉ là một quả núi cũng không phải là không đúng. Tôi nghĩ chắc nó chỉ cỡ như Núi Nhỏ ở Vũng Tàu. Nói như vậy là nói đại theo cảm tính chứ thực ra tôi chẳng biết Núi Nhỏ, còn gọi là núi Tao Phùng, rộng bao nhiêu, chỉ biết là cao 170 thước.

Khi chúng tôi dừng xe tại thành phố Andalusia bên phía Tây Ban Nha để có thể nhìn và chụp ảnh ngọn núi Gibraltar, tôi thấy như có thể bỏ túi được ngọn núi này. Nó gọn ghẽ trước mắt như ngày nào tôi nhìn ngọn Núi Nhỏ quen thuộc ở Vũng Tàu trong thời gian tôi dạy học tại đây. Đôi mắt tôi là một đôi mắt nhiều thiên vị vì ngọn núi Gibraltar cao tới 426 thước, cao gấp ba lần Núi Nhỏ lận! Lãnh thổ Gibraltar hầu như chỉ gồm có ngọn núi này và một dải đất hẹp dưới chân núi. Nói tới Gibraltar người ta thường dùng chữ Rock of Gibraltar.

Chắc chúng ta phải liếc sơ qua lịch sử để có thể hiểu tại sao Anh quốc lại gác một chân qua lục địa Âu châu bằng mỏm núi Gibraltar. Vì dính với Tây Ban Nha nên trước kia đây là lãnh thổ của Tây Ban Nha. Năm 1704, khi Tây Ban Nha đang có nạn tranh dành ngôi hoàng đế thì liên quân Anh và Hòa Lan đã đánh chiếm ngọn núi này. Bằng Thỏa Ước Utrecht được ký kết vào năm 1713, Gibraltar được nhượng vĩnh viễn cho Anh. Anh dùng nơi đây như một căn cứ hải quân. Đó là chuyện xưa còn dính tới nay. Ngày nay, với trào lưu mới, chuyện thuộc địa hay lãnh thổ hải ngoại đã bị cho vào lịch sử. Tây Ban Nha đời nào lại chịu để cho một phần da thịt của mình rơi vào tay người Anh ở tuốt phía bên kia bờ biển Địa Trung Hải. Họ đã nhiều lần đòi lại Gibraltar. Cuối cùng, hai bên thỏa thuận để cho chính dân chúng Gibraltar quyết định vận mệnh của họ. Giải quyết như vậy thật có lý. Ý dân là ý trời! Năm 1967, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức. Kết quả dân chúng muốn ở với Anh. Mới đây, năm 2002, lại trưng cầu dân ý. Kết quả: Vũ Như Cẩn. Vẫn như cũ! Vậy là mọi sự an bài. Theo hiến pháp 2006 thì Gibraltar là một xứ tự trị, chỉ nhờ Anh chịu trách nhiệm về quốc phòng và ngoại giao.

Dân số Gibraltar, theo thống kê năm 2011 là 29.752 người. Đất nhỏ người đông, đây là nơi có mật độ dân số thuộc vào loại đông nhất hành tinh với gần năm ngàn người trên một cây số vuông. Ngày xưa ông Tú Xương của chúng ta xỏ xiên khi thấy người ta chúc nhau nhiều con: Phố phường chật hẹp người đông đúc / Bồng bế nhau lên núi ở non. Chắc ông muốn nói tới nạn nhân mãn ở Gibraltar! Đúng là lên núi ở ráo hết. Nhưng lên núi nào có dễ. Phải có tiền mới leo lên ở tuốt trên cao được. Ở Gibraltar cũng như ở Mỹ, nơi dân Mít chúng ta đang khẳng định địa vị và của cải bằng cách xây nhà trên núi, càng cao càng mát mặt! Dân tầm tầm thì cứ bám vào chân núi mà sống.

Dân Gibraltar chính gốc là dân được sanh ra ngay tại phần đất này. Họ không thuần là dân Tây Ban Nha vì năm 1704 dân Tây Ban Nha đã rời hết khỏi vủng đất bị quân Anh và Hoà Lan chiếm đóng này. Theo cuộc kiểm tra dân số vào năm 2011 thì trong số ba chục ngàn dân Gibraltar có tới 83% là dân chính gốc Gibraltar, gần 10% dân gốc Anh, 3,5% gốc Maroc, 1,19% gốc Tây Ban Nha.

Tôi cứ nghĩ là dân thuộc lãnh thổ Anh thì phần lớn theo Anh giáo nhưng không phải vậy. Có tới 78% dân chúng theo công giáo La Mã. Anh giáo chỉ có 7% tín đồ trong khi Hồi giáo có 4% người theo. Ông già tài xế xe taxi chở chúng tôi đi du ngoạn trên núi là một người công giáo có…trình tòa. Xe của ông treo lủng lẳng cây thập giá ở phía trước!

Một điều tréo ngoe khác là xe cộ ở Gibraltar chạy theo bên phải chứ không phải bên trái như ở Anh và các nơi ăn theo như Úc, Nhật Bản. Đó là điều hợp lý. Chẳng lẽ cả đại lục Âu Châu người ta chạy xe bên phải mà khi vào Gibraltar phải đổi qua bên trái? Ẹo ba sườn hết! Mà cái biên giới giữa Tây Ban Nha và Gibraltar có cách trở chi cho cam. Nó chỉ là cái hàng rào sắt mỏng dính. Vậy mà đi xuyên suốt Âu châu xe cứ chạy tuồn tuột chẳng biết đâu là biên giới nếu không chịu khó nghiêng người nhìn vào tấm bảng ghi bên đường, khi tới Gibraltar lại có phú lít đứng đòi coi thông hành từng người trong xe.

Anh Sĩ chủ xị thu thông hành của chín người trong xe trình cho anh phú lít Gibraltar có cái cười tươi rất bô trai. Anh lơ đãng mở một cuốn, cười, hỏi người Việt Nam hả? Anh cho biết có đi du lịch Việt Nam. Vậy là phe ta. Anh khoát tay cho xe đi. Chạy loanh quanh trong khu phố đi chưa được dăm phút thì xe đã ngược về…biên giới! Vậy là sao ta? Từ tài xế tới ban “giao thông công chánh” trên xe hội ý. Chẳng lẽ Gibraltar nhỏ đến thế! Ra tới hàng rào sắt, thấy có một bảng chỉ ra Tây Ban Nha, một bảng chỉ vào phi trường Gibraltar, quân ta bám trụ quẹo qua hướng phi trường. Vào bãi đậu xe trong phi trường nhỏ tí tẹo chỉ có máy bay qua mẫu quốc Anh, quân ta ngơ ngác. Đang lúc túng bấn thấy có một ông già đầu bạc chạy tới. Ông nhấc tấm bảng đeo trước ngực tự giới thiệu là tài xế xe du lịch chính thức của nhà nước Gibraltar mời mọi người lên xe của ông đi du ngoạn trên núi. Ông chỉ vào tấm bản đồ trên tay giới thiệu lộ trình và nhấn mạnh tới cái giá tiền đã được ghi trên tài liệu: 12 bảng Anh hoặc 14 euro. Vậy là ở đây tiêu cả hai loại tiền. Ông nhấn mạnh giá này chưa kể phí tổn mua vé lên núi do chính phủ thu là 15 euro. Vậy là mỗi nhân mạng nộp 29 euro. Đành phải bắt chứ sao. Xe của ông y chang cỡ xe 9 người chúng tôi đi. Thêm ông tài xế đầu bạc tự giới thiệu tên là Jackie và được chúng tôi gọi là Jackie Chan thì thừa đứt một trự. Ông nói không sao. Mười người vẫn cứ OK như thường. Vậy là lên xe tuy bụng người nào cũng đánh lô tô vì xe leo đường núi vừa dốc vừa hẹp mà ông lại phóng như ngựa phi nước kiệu, không giây nịt chằng vào người thấy chông chênh dữ. Đường núi nguy hiểm như vậy họ không cho xe thường dân leo lên cũng phải. Nhìn quanh mấy xe khác, thấy mỗi xe chỉ hai ba người mới biết ông già hôm nay trúng mánh. Chơi một xe dư người đầy nhóc. Xe ngừng tại 4 trạm. Trạm đầu là bao lơn nhìn khung cảnh mặt bể phía dưới. Trước mặt chúng tôi trải dài mặt nước xanh biếc, nơi giao điểm của hai biển Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Núi Rock of Gibraltar trấn giữa là vị trí chiến lược kiểm soát được tất cả các tàu bè ra vào Địa Trung Hải. Tôi nhìn về phía biển thấy có hai giải đất phân chia rõ rệt, bên trái là Maroc của Phi Châu nằm cách chỗ chúng tôi đứng chỉ có 20 cây số trông rõ mồn một. Bỏ tí tiền nhìn vào ống nhòm gắn sẵn còn rõ hơn nữa. Bên phía phải là bờ biển nhôi ra của Tây Ban Nha thuộc Âu Châu. Vậy là nơi đây phân chia ra hai đại dương và hai đại lục!

Nhìn sơn hà hai phía nằm trên hai đại dương giao nhau chán, chúng tôi mới chú ý tới một kiến trúc phía sau lưng. Đó là Trụ Cột Hercules {The Pillars of Hercules). Hercules thì tôi biết. Đó là một nhân vật thần thoại Hy Lạp đô con đánh đâu thắng đấy. Chàng khỏe như…thần vì được uống sữa của mẹ kế tên Hera, vợ của thần Zeus. Địch thủ của chàng chỉ có khóc khi giao đấu với chàng. Chàng lập được 12 kỳ công khi chinh phục 12 thế lực siêu nhiên từ con sư tử mình đồng da sắt, chú nai siêu tốc tới những quái vật khủng khiếp như rắn 9 đầu Hydra, chó 3 đầu Cerberus. Người ta tạo nên chàng để diễn tả ước muốn chinh phục thiên nhiên của con người thời bấy giờ. Hình ảnh làm tôi nhớ tới anh thần vai u thịt bắp này là hình chàng vác quả địa cầu như anh phu khuân vác vác một bao gạo trên sách Atlas! Nhưng sao lại có cái gọi là trụ cột của Hercules nằm nơi đây? Theo truyền thuyết thì khi Hercules phải vượt qua ngọn núi tên là Atlas, đáng lẽ phải leo núi như mọi người, chàng đã dùng sức mạnh siêu việt để dẵm nát trái núi tạo thành giao điểm giữa Đại Tây Dương và Địa Trung Hải và tạo ra dải đất Gibraltar. Một chân của chàng đặt trên phần đất ngày nay là Gibraltar, một chân bên núi Hacho ở tuốt tận Maroc ngày nay. Trụ cột mà tôi đang loay hoay thu vào máy hình là nơi chàng Hercules thần thoại đặt chân ngày hồng hoang xưa. Với cái dạng háng giữa hai bờ, chàng Hercules bất lịch sự này đã bắt các tàu bè ra vào Địa Trung Hải phải lòn qua trôn của chàng.


Bên chân The Pillars of Hercules.

Rời gót chân của anh chàng vai u thịt bắp Hercules, xe tiến lên cao hơn để tới hang thạch nhũ Michael Cave. Tôi không hứng thú mấy với trạm dừng chân này vì hang thạch nhũ nào cũng giống nhau. Hang Sửng Sốt ở Vịnh Hạ Long hay hang Luray Caverns ở gần thủ đô Hoa Thịnh Đốn của Mỹ nơi nào cũng xêm xêm như nhau. Cũng những sợi thạch nhũ rủ xuống, cũng đèn xanh đèn đỏ. Hang Michael Cave này có mỗi điểm khác là có một nơi thông thoáng mà người ta có thể thiết lập một sân khấu trình diễn ngay trong hang. Khi tôi tới thì thợ đang sửa sang khu sân khấu này.

Xe lại leo lên cao hơn. Để gặp khỉ! Tôi đã so sánh Gibraltar như một chú khỉ bám trên lưng Tây Ban Nha. Hình ảnh này có được sau khi tôi thấy một chú khỉ tinh nghịch nhảy phóc lên bám trên lưng một bà đầm mập mạp. Bác tài Jackie vui tính vừa lái xe leo dốc vừa căn dặn chúng tôi: thấy khỉ thì cứ tỉnh bơ coi như…người! Không tới gần, không cho chúng ăn, phớt tỉnh như Ăng lê ở Gibraltar. Xe vừa tới giang sơn của khỉ, mọi người thấy hơi teo. Chúng nhởn nhơ đi dạo, tụ tập ngay trên đường bắt chí cho nhau. Đặt chân xuống đất, chúng tôi len lén đi vào vương quốc của con cháu Tề Thiên Đại Thánh. Phong cảnh nơi đây thật tuyệt vời. Đứng nhìn xuống một bên núi, một bên biển, trời đất trải dài dưới chân bao la như đang ôm lấy con người. Ai cũng muốn thu vào ống kính cảnh thiên nhiên rộng mở này nhưng cứ loay hoay không sao chụp được. Mấy chú khỉ chia nhau ra ngồi trên lan can phơi nắng chẳng biết nhường nhịn là chi. Chỉ còn cách chụp chung. Kệ! Dù sao đây cũng là một nét đặc trưng của Gibraltar.

Tôi dùng máy quay phim quay cảnh một anh tài xế đang ve vuốt nói chuyện với một chú khỉ to lớn, chắc phải là một thứ…chức quyền ở đây. Anh vuốt ve chú khỉ đột thân mật như ve vuốt một người thân. Một chú khỉ con lớ ngớ đứng bên cạnh bỗng nhảy phóc từ mặt đường lên lưng một bà đang say sưa chụp hình. Bà la hét. Chú tài xế khuyên bà nên bình tĩnh rồi  tới gần  giơ tay  dụ chú khỉ lanh chanh xuống vòng tay của chú. Cả đoàn chúng tôi có lẽ chẳng ai thích khỉ nên rủ nhau leo chừng mươi bậc thang lên phía cao hơn để chụp phong cảnh tuyệt đẹp nơi đây. Tôi vừa rút máy hình ra định chụp, còn đang lựa thế, thì một chú khỉ ngồi cách xa chừng năm thước nhào vào thanh lan can phía sau lưng tôi. Khi chú nhảy phóc về chỗ cũ thì tôi thấy gói thuốc tây trong xắc của tôi đang ở trong tay chú. Khi lấy máy hình ra tôi vô ý không kéo chiếc khóa túi xách lại. Tôi la lên; “Nó lấy gói thuốc của tôi!”. Chú tài xế đang chơi với chàng khỉ chúa vội sai khỉ đi làm nhiệm vụ. Chàng khỉ cốt đột nhảy phóc lên giằng lại túi thuốc từ tay chú khỉ nhỏ. Chú khỉ nhỏ tưởng vớ được đồ ăn nên còn giữ lại trong tay một hộp thuốc vừa cắn vừa bóc ra bằng chân. Bác tài Jackie nhảy phóc từ trên xe xuống, tay cầm một cây roi leo lên bên cạnh chú khỉ đang thú vị với chiến lợi phẩm. Thấy bác tài hung hăng với cây gậy, chú vứt hộp thuốc trên tay xuống và chạy trốn mất tiêu. Jackie lượm thuốc đưa trả cho tôi. Tôi thấy chưa đủ, còn thiếu hai lọ thuốc nhỏ mắt. Jackie nhảy lên, dùng chiếc gậy bới cỏ ra tìm. Một lúc sau Jackie đưa cho tôi đủ hai lọ thuốc nhỏ tí tẹo. Bác nháy mắt: “Jackie mà!”.


Khỉ ngồi trên mui xe ngắm biển.

Hỏi tung tích bày khỉ phá phách này có người cho biết là thoạt đầu có một nhóm ngưới Ả Rập mang tới mấy con khỉ và bị sút chuồng. Thấy có mấy chú khỉ cũng vui và du khách cũng thích nên cứ để chúng sống và sinh sôi nảy nở tới ngày nay. Người khác cho biết chúng là giống khỉ không đuôi sống trên núi ở Maroc, được người Anh mang sang vào thế kỷ thứ 18. Chúng lập thành bày đàn, sinh sôi nảy nở ra thành một giang sơn khỉ như ngày nay. Ngày nay có khoảng 160 trự tất cả. Tôi nghĩ đây là con số phỏng đoán chứ làm sao mà kiểm tra dân số được vì có những tài liệu khác đoán dân số con cháu Tề Thiên Đại Thánh tới 200 trự lận! Trong Thế Chiến Thứ Hai, bày khỉ này có lúc chỉ còn đúng 3 chú sống sót. Có một giai thoại cho rằng Anh sẽ mất Gibraltar nếu bày khỉ trên núi bị tiêu diệt. Vậy mà người hùng của Anh là Thủ Tướng Winston Churchill cũng mê tín. Năm 1942, ông Thủ Tướng lúc nào cũng dính điếu thuốc xì gà trên miệng này đã ra lệnh phải gia tăng dân số khỉ. Họ làm tăng số khỉ ra sao, đây là một bí mật…quốc gia! Các nhà khoa học cho rằng người Anh đã mang thêm khỉ từ Maroc hoặc Algérie vào Gibraltar. Họ đã đoán đúng. Những cuộc thử DNA được tiến hành mới đây cho biết là đàn khỉ này thuộc giống khỉ cả ở Maroc lẫn Algérie.

Rất nhiều du khách đứng quanh tôi thích thú với đám khỉ tinh nghịch này. Nhưng thích thú tới đâu họ cũng không dám một mình giỡn hớt với khỉ. Họ chỉ ve vuốt chúng khi có những tài xế xe taxi  bên cạnh. Khỉ chỉ nể mấy chú này. Có lẽ vì họ cho chúng ăn và thân mật với chúng. Một trò chơi coi bộ thích thú của mấy chú khỉ…trẻ tinh nghịch này là nhảy phóc trên  mui xe đang chạy. Hầu như trên xe nào cũng có một chú khỉ thượng lên ngồi trên mui. Khi xe chạy tới một quãng khá xa, chú khỉ nhỏ nhảy phóc xuống và quá giang xe chạy ngược chiều trở về. Dĩ nhiên chúng không trả tiền xe!

Người Anh nhất định không nhả Gibraltar ra vì đây là điểm chiến lược lý tưởng để kiểm soát tàu bè ra vào Địa Trung Hải. Họ đục sâu vào lòng núi những đường hầm để xây dựng các pháo đài vững chắc. Toàn cảnh chiến tuyến xưa nay vẫn còn nguyên. Chúng tôi đã tận tay sờ vào những khẩu đại bác xưa cũ nằm trên mỗi ổ pháo kích trong đường hầm. Đường hầm dài như vô tận. Càng tiến sâu vào càng heo hút. Ngoài những lỗ châu mai hướng ra biển còn có những kho chứa thuốc súng, những căn phòng chỉ huy. Chính nơi đây đã là khung cảnh cho bộ phim “Les Canons de Navarone” đã từng được chiếu tại Sài Gòn xưa. Đi tới mỏi chân cũng chưa hết đường hầm dài tới 50 cây số này, chúng tôi đành trở ra. Bác tài Jackie đã hẹn giờ phải ra xe. Chắc kinh nghiệm cho bác biết nếu để tự do, du khách sẽ say mê với khung cảnh chiến đấu xưa không thèm tìm lối về.


Rock of Gibraltar chụp từ phía biên giới Tây Ban Nha.

Nhìn những khẩu đại bác nặng nề, du khách nhất định sẽ phải đặt câu hỏi: làm sao họ có thể kéo những khẩu đại pháo này lên tuốt trên cao được? Đó là sáng kiến của Trung Sĩ Nhất Ince. Ông cho đục cách quãng những khối đá bên đường lên núi, móc vào đó những chiếc móc sắt tròn để giữ súng từng chặng kéo lên. Khi xe chạy, tôi ngồi phía bên xe nên đã nhìn thấy những móc sắt vẫn còn tới nay.

Xuống núi, chúng tôi tới quảng trường trung tâm Gibraltar. Chung quanh là những sập hàng bán đồ lưu niệm và các cửa hàng bán quần áo, giầy dép. Nơi đây còn có những quán bán cà phê, bia và các món ăn nướng đặc biệt của Gibraltar. Ai thích mua sắm hay mua ít đồ kỷ niệm thì túa vào các cửa hàng, tôi với Võ Kỳ Điền ngồi giữa quảng trường uống bia. Nhìn lên quả núi dài tới 6 cây số rưỡi, rộng 800 thước và cao 417 thước màthấy nhỏ xíu, tôi nghĩ tới cái bao la của thiên nhiên. Tôi nghĩ tới kiếp người. Cái kiếp mà hai chúng tôi đã kéo dài tới gần như mút chỉ. Nhấp một hớp bia, tôi nói với ông bạn nhà văn: “Vui thật! Vậy mà cũng có ngày hai đứa mình ngồi nhậu bia ở nơi chốn xa lạ này nhỉ!”.


Ăn nhậu với nhà văn Võ Kỳ Điền.

5

Từ Gibraltar, xe trực chỉ tới Seville của Bồ Đào Nha. Biên giới cũng ra vào thong thả, chẳng có anh phú lít nào gác hết. Bên đường chỉ có một trạm informacion. Có cần hỏi han chi đâu, chúng tôi phớt lờ trạm thông tin này để dõng dạc tiến vào nước Bồ. Tưởng ngon hóa ra vừa lọt vào một chiếc bẫy. Nói vậy hơi oan cho mấy ông Bồ nhưng quả thực mấy ông chơi không đẹp.Các ông bắt đầu thu tiền toll mà chẳng thèm báo trước. Đi một quãng khá xa biên giới, chúng tôi mới thấy bên đường có những tấm bảng báo là xe đang chạy trên quãng đường có thu tiền toll bằng máy điện tử. Vậy là…chít ngộ rồi! Tới một trạm xăng, vào hỏi làm sao mà nộp tiền đây, họ bảo đáng lẽ phải ghé trạm informacion ở biên giới để đóng tiền trước. Có ai bảo ban chi, cũng chẳng thèm có lấy một tấm bảng báo cho du khách biết để ghé vào móc hầu bao, cứ ngấm ngầm coi như mọi du khách đều thông minh cả. Anh nhân viên trạm xăng bảo lỡ rồi, anh có thể giúp trả tiền với điều kiện phe ta phải có phôn tay để liên lạc. Quân ta đi hành quân trong thời bình nên chẳng trang bị máy truyền tin. Vậy là huề. Mặc cha nó, ra sao thì ra! Anh chủ xị Đặng Sĩ phán như thế nhưng trong bụng đánh lô tô. Anh chợt nghĩ ra là có một ông bạn đã bị phạt gấp ba bốn lần cũng vì không biết trả tiền cho ai như vậy. Tiền toll ở Bồ Đào Nha vào loại rất đắt, có trạm chúng tôi đã phải chi ra hơn ba chục euro cho một đoạn đường ngắn. Vậy là khó dễ nhau quá cỡ. Đã lỡ bước sang ngang, đành tính sau vậy. Tới thủ đô Lisbon chắc sẽ gỡ ra mối bòng bong này. Tại nơi thủ đô mà tiếng Bồ gọi là Lisboa, nhân viên khách sạn chỉ tới…bưu điện. Ông bưu điện bảo đúng họ có giải quyết thật nhưng với xe đăng ký ở Bồ Đào Nha mà thôi. Xe chúng tôi thuê ở Pháp nên bù trất. Lại…mặc cha nó! Để khi về qua biên giới Bồ trở lại chắc sẽ có…informacion nữa. Đi ra khỏi Bồ chẳng có trạm thông tin chi nhưng có cây xăng ở biên giới. Họ cho đóng tiền. Rút bóp ra mà vui như tết. Tôi ngẫm nghĩ. Đời sống thật vui. Thu tiền vào cũng sướng mà chi tiền ra cũng có lúc sướng!

Nhưng sướng hơn là chúng tôi đang viễn hành trong những ngày giáp tết âm lịch mà trên đồi núi nước Bồ hai bên đường xe chạy hồng lên vì hoa đào. Đúng là những gốc đào Hà Nội xưa. Đó là nhìn xa từ trên xe đang chạy trên xa lộ, tới gần không biết có nhìn được những cánh đào y chang như đào Nhật Tân thuở Hà Nội xa xưa không. Thôi, cứ lờ mờ nhân ảnh như vậy lại hay. Để đời còn những mộng mơ.

Một trong những ước mơ của những người Công giáo là đi hành hương viếng những linh địa. Một trong những linh địa lừng danh là Fatima nằm trên đường đi từ thủ đô Lisbon tới Porto. Nói chuyến đi lần này của chúng tôi là đi hành hương thì tội cho chữ “hành hương” quá. Có kinh kệ oang oang trên xe đâu! Chúng tôi đi chơi thì đúng hơn. Nhưng nếu chúng tôi ghé tới hai linh địa là Fatima trên đất Bồ và Lourdes, mà dân ta gọi là Lộ Đức, trên đất Pháp thì cũng… hành hương quá đi chứ! Gì thì gì, cứ  có thiện tâm tới với Mẹ là Mẹ vui rồi. Vậy nên mấy người “có đạo” trong xe gọi một cách rất thân tình là đi thăm Mẹ. Nghe tình cảm hơn là hành hương. Vậy mà coi bộ chuyện đi thăm mẹ lại khá vất vả. Ngày chót chúng tôi ở thủ đô Lisbon để sáng ngày hôm sau đi Fatima, trời xấu tệ. Gió chắc phải cả trăm cây số giờ. Ngoài đường vắng hoe. Cây cối ngả nghiêng theo gió. Buổi trưa, thấy trời có vẻ đỡ đỡ hơn, tôi ra đường đi tìm bữa ăn trưa. Vừa đẩy được cánh cửa kính của khách sạn ra, gió dọa liền. Cánh cửa kính mà nặng như cửa sắt. Thây kệ. Cứ ra cho biết cái gió xứ Bồ. Chẳng đi đâu xa, bước qua thương xá trước mặt khách sạn kiếm cái chi bỏ bụng thôi. Chỉ có băng qua đường mà tơi tả. Người như phơi ra cho những cú đánh của trời. Vừa ăn vừa tính đường về vì ngoài trời bắt đầu mưa lớn. Cả giờ sau, khi ngớt mưa mới vội về. Chiếc ti-vi trong sảnh lớn đang phát những hình ảnh đổ nát của thành phố. Có chỗ thấy như vừa qua một cuộc…oanh tạc!

Sáng ngày hôm sau, trời quang, gió thôi hoành hành. Có vậy chứ. Xe trực chỉ ra xa lộ. Tới Fatima quang cảnh như vừa qua một cuộc chiến. Cây đổ ngả nghiêng ngay trong khuôn viên linh địa. Có những cổ thụ thân phải hai người ôm mà cũng nằm sóng soài trên mặt đất. Trời lại mưa. Chúng tôi lúp súp về nhà Mẹ. Cực dữ! Mấy bà bảo là Mẹ thử thách! Đội mưa mà đi, nghe thấy tiếng hát, chúng tôi tìm tới ngôi nhà kính đang có thánh lễ. Đây là một ngôi nhà thấp nằm đúng địa điểm Đức Mẹ hiện ra, phía trước cây sồi vẫn còn tới ngày nay. Nguyện đường trang hoàng rất…tân thời nằm sát bên chỗ lò đốt nến. Công giáo hay không, cả đoàn vào dự thánh lễ nơi Mẹ đã hiện ra. Trong khi thánh lễ đang diễn ra, tôi nhìn ra ngoài và thấy có những tín đồ đi ngang qua bằng cách quỳ gối di chuyển. Chuyện mẹ Maria hiện ra vào năm 1917, người Công giáo ai cũng biết. Nhưng độc giả không phải ai cũng rõ ngọn ngành.

Đức Mẹ hiện ra 6 lần tất cả, từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1917, vào những ngày 13 mỗi tháng. Những người được diễm phúc trông thấy Mẹ là ba trẻ mục đồng: Lucia, 10 tuổi và hai anh em ruột Francisco, 9 tuổi, Jacinta, 7 tuổi. Khi đó Thế Chiến Thứ Nhất đã xảy ra được 4 năm. Lần đầu Mẹ hiện ra vào ngày 13 tháng 5 năm 1917 chỉ có ba em nhỏ đang chăn cừu và hẹn sẽ hiện ra lại đúng một tháng sau. Cô bé Jacinta mới 7 tuổi nên không giữ kín được chuyện này như Mẹ dặn, kể lại hết với cha mẹ. Cha xứ Fatima gọi các em tới hỏi và Ngài không tin. Trong báo cáo gửi lên Tòa Giám Mục giáo phận Leiria Ngài viết “cần phải xa lánh chuyện này”. Nhưng ngày 13 tháng 6 sau đó, có vài chục người cũng tò mò đi theo các em ra chỗ cây sồi. Nhưng họ không thấy chi, chỉ có ba em nhỏ nhìn thấy Đức Mẹ. Mẹ khuyên các em siêng năng cầu nguyện và báo trước: “Ta sẽ sớm đưa Francisco và Jacinta về trời, còn con, Lucia, con sẽ ở lại thế gian một thời gian. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta”. Lần thứ ba có 4 ngàn người theo các em ra, lần thứ tư có 18 ngàn người, lần thứ năm 30 ngàn người, và lần chót có tới 70 ngàn người trong đó có nhiều phóng viên các báo tới đưa tin dù trời mưa như trút nước. Khi Mẹ biến hình thì trời ngưng mưa, mặt trời xuất hiện, xà xuống thấp gần trái đất và nhảy múa tung ra các chùm ánh sáng nhiều màu. Việc lạ này xảy ra trong mười phút. Trong thời gian này các nhà khoa học trên khắp thế giới không ghi nhận được một sự kiện khác thường nào của mặt trời. Ký giả của báo O Dia ở thủ đô Lisbon tường trình như sau: “Mặt trời màu bạc bao quanh bởi những tia sáng màu tím quay vòng tròn giữa đám mây còn đọng lại. Ánh sáng chuyển sang màu xanh tuyệt đẹp như chiếu qua những cánh cửa sổ kính màu của một nhà thờ chính tòa, tỏa xuống trên những chiếc đầu trần của dân chúng đang quỳ gối, tay giang rộng cầu nguyện và khóc trước phép lạ mà họ đã chờ đợi. Những giây phút này dài như hàng giờ, rất sống động”.

Ngày 13 tháng 10 năm 1930, sau 23 năm điều tra, Giám Mục Da Silva mới chính thức công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ mục đồng và cho phép tôn sùng Đức Mẹ Fatima. Tượng Đức Mẹ Fatima được tạc theo lời kể lại và hình thành dưới sự chứng kiến của chị Lucia và được tôn kính tại thánh đường Fatima. Một bản thứ hai giống hệt được rước đi khắp thế giới. Thập niên 1960, bức tượng này đã tới Việt Nam và thánh du từ Sài Gòn ra Huế cùng mọi miền đất nước ta. Ngày nay, khi tới Fatima, muốn thỉnh tượng Mẹ thì vô cùng dễ. Dọc theo đường vào linh địa là các cửa tiệm chỉ chuyên trị bán tượng Mẹ Fatima. Bên trong khuôn viên lại còn gần trăm gian hàng nữa. Mẹ đứng hoa cả mắt. Muốn chọn một tượng trong số trăm kiểu không phải dễ. Tôi phân vân di chuyển theo các cửa hàng để lựa được những tượng thẩm mỹ, đẹp và giản dị. Ai tới đây cũng vậy: chẳng có ai về tay không.

Đúng như lời Mẹ nói với các em, hai anh em Francisco và Jacinta đã “về trời” trong trận đại dịch cúm Tây Ban Nha vào năm 1919 và 1920. Năm 1925, Lucia vào dòng tu tại Tây Ban Nha lúc được 18 tuổi. Sau đó chị trở về Bồ Đào Nha sống trong dòng kín Camelo tại Coimbra cho đến khi qua đời vào năm 2005, thọ 97 tuổi. Trong thánh đường có mộ của hai em bé Francisco và Jacinta nằm phía bên trái bàn thờ chính. Du khách tấp nập đứng cầu nguyện và chụp hình bên hai nấm mộ.

Tôi mặn mà với một tấm bảng màu xanh da trời được gắn ở một bên cửa vào thánh đường chính. Hàng chữ ghi trên bảng bằng ba thứ tiếng Bồ, Anh và Pháp: No tengáis miedo / Do not be afraid / N’ayez pas peur. Mấy chữ rất thường tình nhưng đây là mấy chữ đã làm sụp đổ chế độ Cộng sản ở Ba Lan và các nước khác kể cả Liên Xô. Chuyện khá thần kỳ. Đức Giáo Hoàng Jean Paul II, người Ba Lan, năm 1979, một năm sau khi lên ngôi, đã về thăm quê hương. Trong một bài giảng, Ngài đã nói với dân chúng Ba Lan, lúc đó còn sống dưới chế độ cộng sản, “các con đừng sợ”. Lời dạy này đã làm dân chúng thêm can đảm và năm sau dân chúng đã nổi dậy và Công Đoàn Đoàn Kết được thành lập. Liên Xô ra lệnh cho nhà cầm quyền Ba Lan phải dẹp cuộc nổi dậy, nếu không quân đội Liên Xô sẽ tiến vào dẹp loạn. Đức Giáo Hoàng liền viết cho Chủ Tịch Liên Xô Leonid Brezhnev một lá thư cho biết nếu Hồng quân tiến vào Ba Lan, Ngài sẽ “thoái vị và trở về quê hương để sát cánh cùng dân chúng Ba Lan”. Năm 1981, trong một cố gắng tuyệt vọng để ngăn cản cuộc Cách Mạng Ba Lan, cơ quan tình báo KGB của Liên Xô đã tổ chức ám sát Giáo Hoàng. Ngài thoát chết và càng mạnh mẽ ủng hộ cuộc tranh đấu cho tự do của dân tộc Ngài hơn. Ba Lan thoát khỏi chế độ cộng sản kéo theo sự sụp đổ của toàn khối cộng sản Âu châu kể cả anh trùm Liên Xô. Ngày nay cuộc tranh đấu cho dân chủ ở Việt Nam cũng vịn vào câu “các con đừng sợ” để đứng dậy. Càng ngày giới trí thức, giáo dân và dân chúng Việt Nam càng can đảm đối đầu với cường quyền. Tôi đứng ngắm nhìn tấm bảng màu xanh giản dị nhưng mang hàng chữ đã chôn vùi được chế độ cộng sản. Và tôi có một ước mơ!


“Các con đừng sợ”

Nhưng tại sao tấm bảng có hàng chữ đã làm thay đổi thế giới này lại được dựng ở đây? Tôi tò mò tìm hiểu. Ngay lần hiện ra đầu tiên vào ngày 13 tháng 5 năm 1917 với ba trẻ chăn cừu trong ánh sáng chói lọi hơn ánh sáng mặt trời, câu đầu tiên Đức Mẹ nói với các em như sau: “Các con đừng sợ, ta không làm hại các con!”. Tôi nghĩ Đức Giáo Hoàng Jean Paul II đã nhắc lại câu này khi nói với các con chiên nơi quê hương Ba Lan của Ngài. Chính Ngài đã “làm mới” lời Đức Mẹ phán khi xưa ở chính nơi mà tôi đang đứng trước tấm bảng màu xanh đầy hy vọng này.

Bồ Đào Nha có linh địa Fatima, Pháp có Lourdes. Chúng tôi có diễm phúc viếng cả hai nơi. Trên đường tới Lourdes, Mẹ cũng lại…thử thách. Nặng tay hơn lần trước. Trước khi tới chân núi Pyrénées, trời nổi cơn bão tuyết. Tuyết rơi hối hả chẳng mấy chốc mà đã trắng xóa. Đường trơn trượt rất khó cho xe cộ lưu thông. Các xe hạng nặng chở hàng đã dạt vào bên đường dừng lại không dám đi. Bên những bãi cỏ bên đường, giờ đã trắng xóa, có nhiều xe hơi nhào xuống nằm liệt. Xe chúng tôi lầm lì lê về phía trước với tốc độ hai chục cây số giờ. Mặt anh Sĩ căng lên ghì tay lái. Chiếc cửa hầm xuyên qua núi hiện ra. Xe chui qua. Hình như trời yên gió lặng. Chui qua hai cửa hầm nữa thì qua bên kia dãy Pyrénées. Trời quang mây tạnh. Đường xá đen nhánh, chẳng thấy bóng dáng nàng tuyết đâu cả. Tôi bỗng nhớ tới câu danh ngôn: “Vérité en deca des Pyrénées, errreur au dela!”. Chân lý nằm bên này dãy Pyrénées, bên kia là sai lầm. Hai bên dãy núi ngất ngưởng, bên này bão tuyết, bên kia trời trong sáng. Tôi không nghĩ là tác giả câu danh ngôn trên, triết gia Blaise Pascal, lại nói về…tuyết!
Thường thì Lộ Đức luôn luôn tràn ngập những tín đồ hành hương. Mỗi năm có tới 6 triệu người tới với Mẹ. Mùa thăm Mẹ là mùa hè. Những người đã từng tới đây đúng mùa phải đậu xe từ xa rồi leo dốc lên. Những hàng người chen chúc nhau khiến việc tới gần hang đá hay nơi thỉnh nước suối không phải dễ. Khi chúng tôi tới thì xe cứ tự do leo dốc. Xe lên tới sát cửa. Chỉ việc bước xuống xe là tới đích. Khỏe re. Chỉ tội mưa. Mưa như trút.
Đức Mẹ Lộ Đức…già hơn Đức Mẹ Fatima. Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle vào năm 1858 trong khi Đức Mẹ Fatima hiện ra vào năm 1917. Cách nhau ngót nghét 60 năm. Người có diễm phúc nhìn thấy Mẹ là em bé Bernadette, sanh năm 1844. Như vậy khi gặp Đức Mẹ thì em được 14 tuổi. Bernadette bị suyễn ngay từ nhỏ nên thân thể èo uột, trí khôn cũng chậm phát triển. Khi em đang sửa soạn để được rước lễ lần đầu thì ngày 11 tháng 2 năm 1858 em được Mẹ tỏ mình ra với em. Từ tháng 2 cho tới tháng 7 năm 1858, Đức Mẹ hiện ra tất cả 18 lần. Tám năm sau, Bernadette vào dòng tu thánh Gildard và chịu nhiều đau đớn vì bệnh phong thấp và các thương tích nổi lên khắp người. Vì chị là y tá trong nhà dòng nên chị vẫn làm việc và coi bệnh tật như những thử thách mà Thiên Chúa dành cho chị. Khi chị quá yếu không làm việc được nữa, chị đã cam chịu với sự vâng phục thánh ý Chúa: “Việc làm chính của tôi bây giờ là đau ốm!”.


Cây sồi, nơi Đức Mẹ hiện ra bên cạnh nhà nguyện


Bức tượng Đức Mẹ Fatima tại nhà nguyện.


Mộ các trẻ mục đồng đã thấy Đức Mẹ hiện ra nằm bên trong Vương Cung Thánh Đường.

Hang đá mà Đức Mẹ đã hiện ra có hai cửa mà cửa bên phải ngày nay có đặt một tượng Đức Mẹ. Tới hành hương tại Lộ Đức, ai cũng thỉnh nước suối Đức Mẹ về để chữa bệnh hoặc tặng thân nhân ở nhà. Chính chị Bernadette nói về nguồn nước suối này như sau: “Đức Mẹ bảo tôi rằng: “Con hãy uống nước từ nguồn suối, hãy lấy nước suối mà rửa mặt”. Tôi chẳng biết là ở gần Hang Đá có nguồn nước suối, bởi vậy tôi trèo lên bên cạnh Hang Đá. Nhưng Đức Mẹ nói với tôi: “Không phải bên đó”. Đức Mẹ giơ tay chỉ hướng phía trái và tôi theo hướng đó tìm nguồn nước thì thấy chỉ có một chút nước bùn. Tôi dùng tay moi nước lần thứ nhất, thấy nước quá ít, không đủ trong lành. Tôi lấy tay moi lần thứ hai, sâu thêm một chút, không ngờ nguồn nước suối từ bên trong phun ra, nhưng vẫn còn là nước bùn. Tôi moi thêm lần thứ ba và nước phun ra càng lúc càng nhiều và càng lúc càng trong lành hơn. Tôi liền uống nước đó”.


Hang đá Lộ Đức.

Hơn một trăm năm, nguồn nước suối này vẫn tiếp tục phun ra. Khách hành hương đã tắm và uống nước này để chữa bệnh. Nhiều người đã khỏi bệnh. Chúng tôi lang thang trong khuôn viên linh địa mà chẳng thấy chỗ nước suối linh thiêng này. Trời mưa như trút. Hỏi thăm mới tới nơi. Hóa ra đó là một cái bể nước rất lớn bằng xi măng, chung quanh có những chiếc vòi như vòi nước chúng ta xài trong nhà hồi còn ở Sài Gòn. Vòi nước ngày nay kiểu cọ và tân tiến hơn nhiều. Nước suối ngày nay đã được…dẫn thủy nhập điền mang về chứa trong bể này. Gần đó là một quầy có để những chiếc chai nhỏ bằng hai ngón tay. Ai muốn lấy thì bỏ tiền vào một cái thùng đặt cạnh. Muốn có những chai lớn hơn thì mua tại nhà sách trong khuôn viên. Áo mưa đã ướt sũng, chúng tôi ngại trở đi trở lại nên bỏ tiền lấy những chai nhỏ thỉnh nước suối mang về cho những ai cần. Có người kéo nguyên một dàn gỗ có bánh xe trên xếp khoảng hơn chục thùng lớn như những can đựng xăng 20 lít. Họ đứng hứng đầy và mang đi. Không biết họ làm chi. Nhìn mấy chai nước lỏng lẻo trong tay, tôi không nghĩ là mình ít ơn phước hơn.


Thắp nến cầu nguyện tại Lộ Đức.

Thành phố chót của Bồ Đào Nha mà chúng tôi lưu lại là thành phố Porto. Nghe tới Porto, không biết có ai động lòng không. Mấy ông bạn tôi thì chắc chắn biết. Đó là quê hương của thứ rượu Porto mà chúng tôi thường uống khi ăn tráng miệng. Nói đúng theo tiếng Bồ thì phải gọi là Vinho do Porto. Tôi ít thích thứ rượu này vì tửu lượng của tôi thuộc loại xoàng xĩnh mà rượu thường có tới 40 độ cồn. Chơi vài hớp là biết nhau ngay! Rượu có ba màu: đỏ, hồng và trắng.

Thích hay không, tới Porto là phải đi kiếm rượu Vinho do Porto. Không sờ tận tay về lại Montreal, mấy ông bạn tôi cười cho thối mũi! Vậy nên chúng tôi phải tìm tới tận một nơi chế tạo rượu. Lái xe loanh quanh, olá một hồi, chúng tôi được chỉ vào một con hẻm nhỏ lát đá vừa gập ghềnh vừa dốc đứng leo tới sái chân. Trong hẻm là hãng rượu Rozès. Thoạt đầu chúng tôi ngỏ ý muốn coi cách thức chế rượu, họ từ chối vì không phải là mùa du lịch. Thế mới chán. Đi trái mùa thì khỏi phải chen lấn nhưng cây trái thì lèo tèo. Đang đứng lớ ngớ thì một cô đầm cao ráo, ăn mặc lịch sự đi ngang qua. Thấy chúng tôi nói tiếng Pháp, cô dừng lại thăm hỏi. Cô đã ở Paris nhiều năm nên quý người nói tiếng…nước ta. Vậy là đích thân cô chủ đưa chúng tôi đi coi hầm rượu, giải thích cặn kẽ cách chế tạo, hò nhân viên mang rượu ra cho khách nếm. Những thùng rượu bằng gỗ sồi, thứ gỗ đặc biệt của Bồ Đào Nha, nằm theo hàng lối thẳng tắp. Cô cho biết mỗi thùng chứa tới 24 ngàn lít rượu. Đầu mỗi thùng đều có bảng ghi rõ số hiệu, dung tích, ngày vô thùng và ngày hoàn tất. Cơ man nào là thùng nằm chồng lên nhau. Chúng tôi…duyệt binh hết hàng thùng nọ qua hàng thùng kia. Chắc chẳng cần uống cũng say khướt!


Nếm bồ đào mỹ tửu tại Porto.

Ông Võ Kỳ Điền ( lại ông nhà văn biết nhiều này ) khều tôi đố: “Đố ông biết rượu này cổ nhân kêu là rượu gì không?”. Cỡ chỉ biết rong chơi như tôi cách chi mà biết được. Ông rót vào tai tôi: “Bồ Đào mỹ tửu!”. Tôi giật mình. Bộ đây là cái nôi của thứ rượu mà Vương Hàn nhắc tới trong bài thơ Lương Châu Từ chăng? Thực ra dân Việt ta, trải qua liên miên những cuộc chiến, chỉ mặn nhất là câu cuối của bài này: cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Nguyên văn bài Lương Châu Từ như sau:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

Bài Đường thi này được rất nhiều người dịch. Tôi kết bản dịch của Bùi Khánh Đản:

Bồ đào, rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?

Chẳng biết ông Võ Kỳ Điền nói thiệt hay…phiếm. Bồ đào mỹ tửu, thứ rượu nghe tên đã thấy…vua chúa hết biết, cao sang ngất trời. Vậy mà giá chỉ có 11 euro!

03/2013