Bánh
Bia
Cận
Cầy
Cu
Cưng
Cưỡng
Dỏm
Dọn
Đồng
Hoạ
Không
Lái
Mật
Ngôn
Nhốt
Olá
Sang
Sen
Tắm
Tật
Tên
Thiếu
Thịt
Tiếp
Tinh
Trưng
Vui
Wifi

TRƯNG

Ngày xưa, ở Hà Nội, tôi đã thân cận với bà Trưng. Nhà tôi ở ngõ Hòa Mã, cái ngõ ngắn ngủn nối hai đường Hòa Mã và Trần Xuân Soạn, nằm ngay hông chợ Hôm. Chợ Hôm nằm trên phố Huế. Phố Huế như một cột xương sống của thành phố, phân chia hai ngả. Có một ông bạn mới quen qua sách vở, hiện ở Arizona, ngày xưa ở phía bên kia phố Huế, ngược với bên nhà tôi. Lân la qua điện thoại, chúng tôi thường hay nhắc tới những địa điểm quanh khu chúng tôi ở. Như rạp chiếu bóng Đại Nam sang trọng, một rạp xi nê khác nhỏ hơn, tôi quên mất tên, nằm ngay ở góc phố Huế và Trần Xuân Soạn, chuyên chiếu phim tarzan và zorro mà bao giờ, vào lúc cuối phim, khi  người hùng xuất hiện cứu người đẹp hay những kẻ yếu thế, chúng tôi vỗ tay vang  rạp! Về sau rạp này chuyển sang chiếu phim võ hiệp Tàu mà các nhân vật bay lượn như có cánh làm chúng tôi say mê dù có phim, do sơ ý của đạo diễn, máy quay phim hạ xuống sâu quá khiến thấy các kiếm sĩ đang đằng vân giá vũ, áo bay phần phật, nhưng chân đứng trên một bức tường vững chắc! Ông bạn mới quen cho biết ngày xưa là hàng xóm của ông Du Tử Lê, lúc đó còn là nhóc Phách. Hè vừa rồi, nhân tới Cali, ông hẹn gặp ông Du Tử Lê ngoài tiệm phở, ông Du Tử Lê ngơ ngác. Ăn gần hết tô phở, ngắm mãi ông bạn hồi còn đánh khăng đánh đáo, mới nhận ra những nét quen quen ngày xưa.

Định nói chuyện bà Trưng mà lại ra chuyện ông Du Tử Lê, nản hết sức. Trở lại với ngõ Hòa Mã của tôi vậy. Ngõ ngắn xỉn mà ở giữa ngõ cũng có một đền thờ. Thờ ai tôi chẳng biết. Nhưng khách thập phương họa hoằn mới có một người, còn toàn tụi con nít chúng tôi tới quậy trên chiếc sân đất. Từ phố Hòa Mã xuống khu Lò Đúc có một đền thờ khác, cây cối xum xuê, có chiếc ao nhỏ phía trước, tụi con nít chúng tôi hay tới chơi ngoài sân. Đền thờ này thì tôi biết là thờ Hai Bà Trưng. Có rất nhiều đền thờ Hai Bà nhưng nổi tiếng nhất chỉ có ba nơi: đền Hát Môn ở Hà Tây, đền Hạ Lôi ở Vĩnh Phúc và đền Đồng Nhân ở Hà Nội.

Tương truyền sau khi hai bà Trưng tử tiết ở sông Hát đã hóa thành tượng đá, trôi tới Thăng Long thì rẽ nước nhô lên. Dân chúng xã Đồng Nhân vớt lên đưa về lập đền thờ. Hàng năm mở hội vào ngày 6 tháng 2 âm lịch để ghi nhớ ngày đón tượng từ sông lên. Lễ hội có rước kiệu Hai bà.

Chính lễ hội này là dịp tụi con nít chúng tôi quen với hai bà. Trước ngày lễ có màn rửa voi. Hai con voi to đùng được lũ con nít chúng tôi kéo ra bờ sông té nước rửa hết bụi bặm. Chúng tôi xúm nhau vào kéo những đầu dây được cột chặt vào thớt voi trong tiếng reo hò inh ỏi. Hình như chúng tôi chỉ vui với hai bà qua hai thớt voi này. Ngày chính lễ, chúng tôi chạy quanh quẩn coi người ta tấp nập vào lễ bái. Không biết chúng tôi có được thụ lộc hay chôm chĩa đồ cúng không, tôi không nhớ. Quả thật không nhớ chứ không có chuyện ngại miệng nói chi hết! Với lũ nhóc chúng tôi, đền Đồng Nhân ngày đó chỉ là một địa điểm nghịch ngợm của tuổi phá phách. Ngay cái tên Đồng Nhân tôi cũng chẳng thèm biết tới. Khi viết tới đây, mò vào mạng, mới đọc được tài liệu sau. “Đền Đồng Nhân được khởi dựng vào năm 1142 đời Lý Anh Tông, sau sự kiện huyền kỳ về pho tượng Hai Bà bằng đá trôi theo dòng sông Hồng dạt vào bờ và tỏa sáng tại bãi Đồng Nhân đêm 6/2. Từ đó thành lệ cứ vào dịp này hàng năm dân làng tổ chức lễ hội. Đến năm 1819, bãi sông lở, đền chuyển về Sở Võ (giảng võ đường thời Lê) tại thôn Hương Viên, nay là phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hội đền Đồng Nhân kéo dài trong bốn ngày từ ngày mồng 3 tới mồng 6 tháng 2. Lễ hội bắt đầu bằng lễ mở cửa đền ngày mồng 3. Sáng ngày mồng 4 dân làng đã bắt đầu tế (là lễ nhập tịch). Đến ngày mồng 5 là ngày chính hội. Trong ngày này có lễ tắm tượng, tế nữ quan và tổ chức múa đèn, ngày mồng 6 tế lễ chay. Theo tục cũ mọi việc dâng cúng trong hậu cung đều do các lão bà thực hiện”.

Trong vùng ký ức mù mờ của tôi, đền Hai Bà mà chúng tôi lê la trong suốt tuổi tiểu học không còn rõ ràng. Vậy nên khi đọc được  một đoạn tả cảnh đền Hai Bà, tôi mừng hết lớn. Từng góc cạnh của đền hiện rõ dần trong đầu tôi. “Đền thờ Hai Bà Trưng nằm ở số 12 phố Hương Viên, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Trước mặt đền có hồ bán nguyệt, đường vào qua bốn cột trụ gạch đồ sộ, cây cối sum sê, bên trái là khoảnh sân rộng, dưới bóng đa cổ thụ có tấm bia đá đặt trên lưng rùa. Văn bia do Dương Duy Thanh (1804-1861), đốc học Hà Nội soạn năm 1848. Trong đền có tượng Hai Bà, bà chị Trưng Trắc mặc áo vàng, bà em Trưng Nhị mặc áo đỏ, đầu đội mũ phù dung, tượng to hơn người thật, tay giơ cao trước mặt như đang hiệu triệu quần chúng. Hai bên là tượng 12 nữ tướng đã theo Hai Bà khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định, rửa nhục nước, trả thù chồng, thu lại 65 thành trì ở Lĩnh Nam vào mùa xuân năm 40. Hai bà tuẫn tiết vào ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43”.

Mắc chứng chi mà tự nhiên tôi lại nhớ tới hai vị anh hùng dân tộc sống từ những ngày xa xưa khi con số năm dương lịch chưa được nửa thế kỷ. Cũng có nguyên nhân cả. Tôi vừa đọc được một tài liệu được nhiều người truyền nhau trên internet mang tên “Hậu duệ Hai Bà Trưng trên đảo Sumatra”.

Năm 43 hai bà nhảy xuống sông Hát tự trầm. Cuối năm này, một số người Việt đã không chịu được ách nô lệ của nhà Hán nên đã xuống thuyền ra khơi và nhờ gió mùa Đông Bắc thổi đã dạt vào eo biển Malacca. Vậy là chúng ta đã có tổ tiên thuyền nhân từ gần hai ngàn năm trước! Số thuyền nhân lánh giặc phương Bắc này đã định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra, nay là Indonesia, và trở thành người Minangkabau ngày nay. Các nhà nghiên cứu ở Indonesia đã tán thành giả thuyết này của nhà nghiên cứu độc lập Trương Thái Du.

Sau biến cố 1975, những thuyền nhân người Việt dùng thuyền vượt biển qua Indonesia chỉ là men theo con đường vượt thoát của tổ tiên hai chục thế kỷ trước. Có điều, khác với người Việt xưa, chúng ta chỉ tới Indonesia như bước đầu, sau đó đi định cư tại các nước phương Tây. Indonesia gồm tới 13 ngàn hòn đảo mà đảo Sumatra là hòn đảo lớn nhất. Galang và Kuku là hai nơi có trại tạm trú cho boat people người Việt sau quốc nạn 1975. Nhìn trên bản đồ tôi thấy Galang nằm đâu đó cũng gần đảo Sumatra. Không biết người Việt cổ Minangkabau có biết là đồng bào của mình đã theo con đường biển năm xưa họ đã từ Việt Nam tới Indonesia hay không? Tôi nghĩ trong đầu, nếu họ gặp nhau thì sẽ ra sao, chắc cũng vui! Tha hương ngộ cố tri. Nhưng cố tri có khoảng cách thời gian tới  hai ngàn năm đã khác nhau một trời một vực. Người Minangkabau ngày nay vẫn theo chế độ mẫu hệ như thời người Việt cổ. Con cháu hai bà có khác. Vẫn cứ thống lãnh…gia đình. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc được gọi là Turun Cicick, em gái của Turun Cicik nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyl. Hai danh xưng này mang âm hưởng của hai tên Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Các nhà nghiên cứu còn cho biết là kiến trúc truyền thống của người Minangkabau là những ngôi nhà mái cong vút như cặp sừng trâu trông rất giống với những nhà sàn hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn. Loại nhà này được gọi là Rumah Gadang. Trông hình thấy giống như nhà sàn, phần sàn nhà cách mặt đất chừng hai thước. Khác với vẻ đơn giản của nhà sàn chúng ta thường thấy trong các bản Thượng, đây là những ngôi nhà to lớn, được trang trí đẹp mắt. Những ngôi nhà này vừa là nơi cư trú vừa là nơi hội họp hoặc gặp gỡ trong gia đình. Nhà là tải sản được truyền từ đời mẹ sang con gái. Mấy anh con trai chẳng sơ múi chi. Theo đúng chế độ mẫu hệ, mấy anh đực này phải theo vợ nhập vào gia đình khác.

Kiểu kiến trúc sừng trâu của những ngôi nhà Rumah Gadang của người Việt cổ Minangkabau có sự tích đàng hoàng. Chuyện như thế này. Ngày xưa có mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java địa phương. Hai bên thỏa thuận với nhau mang trâu ra chọi để phân xử phải trái. Tới ngày thi chọi, người Java đưa ra một con trâu khổng lồ trong khi người Minangkabu đưa ra một chú nghé con. Chú nghé này bị bắt nhịn đói vài ngày trước khi ra chọi. Vũ khí của nghé là một con dao thật bén cột trên đầu. Vừa nhập cuộc, chú nghé tưởng con trâu dềnh dàng của người Java là trâu mẹ nên cứ rúc vào bụng tìm vú sữa. Con dao trên đầu cứa vào đâm thủng bụng trâu. Vậy là nghé thắng trâu. Tên của người Minangkabu do đó mà có. Minang có nghĩa là thắng và kabu là trâu.

Câu chuyện này nghe quen quen. Đó là chuyện dân gian Việt Nam kể về tài ứng phó của Trạng Quỳnh. Khi sứ Tàu sang nước ta Trạng nước ta thách sứ Tàu thi chọi trâu. Trạng Quỳnh cũng đưa ra một chú nghé bị bỏ đói, đầu cột dao. Nghé cũng đã thắng con trâu to lớn của sứ Tàu. Phải chăng đây là hai dị bản của chung một câu chuyện từ thời cổ đại của nước ta?

Dân chúng Indonesia phần lớn theo đạo Hồi. Người Minangkabau ngày nay phần lớn cũng theo đạo của người địa phương. Nhưng tín ngưỡng nguyên thủy của người Minangkabau là thuyết vật linh, tin vạn vật có linh hồn nên thờ cúng linh vật. Dân Việt cổ cũng thờ thần linh trước khi Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo rồi Thiên Chúa giáo xâm nhập vào nước ta.

Người Minangkabau làm ruộng, trồng lúa và cũng có tục nhuộm răng, ăn trầu như người Việt. Vậy thì họ là người Việt đứt đuôi rồi còn chi nữa. Các nhà nghiên cứu bản xứ cũng tán đồng thuyết cho người Minangkabau là người Việt cổ di dân sang Indonesia. Ngày nay, trong các quảng cáo du lịch cho đảo Sumatra đã xác nhận người Minangkabau là người Việt di dân tới Indonesia bằng thuyền, có phong tục tập quán khác với dân địa phương. Cộng đồng người Minangkabau hiện nay có khoảng 4 triệu người sinh sống tại Sumatra và khoảng 3 triệu người nữa sống rải rác trên các tỉnh thành Indonesia và bán đảo Mã Lai.

Ông Trà Lũ đọc tới đây chắc mừng húm. Là vì bao nhiêu năm nay, ông cứ khăng khăng cho rằng dân da đỏ, chủ nhân đích thực của đất đai vùng Bắc Mỹ, là người nước ta. Cho tới nay ông vẫn cô đơn trong giả thuyết của ông. Trong bài “Người Da Đỏ Gốc Việt” ông viết: “Dân Nga đã tiến xuống phương Nam, lấn bờ cõi của người Tàu. Dân Tàu vượt sông Dương Tử tiến xuống phía Nam, lấn tới Quảng Đông và Quảng Tây, đất của Bách Việt. Huyền sử của Nga của Tàu đều ghi chuyện tiến về phương Nam. Chỉ có huyền sử Việt Nam ghi việc con cái mẹ Âu Cơ đã  tiến lên núi, tức phương Bắc. Tiến lên tận cùng thì gặp Bắc Cực. Ngang đó là eo biển Bering. Một số con của Mẹ Âu Cơ đã theo eo biển Bering, lúc đó bờ biển còn cạn, tiến sang địa đầu Mỹ Châu, rồi đi xuống, và đã gặp miền đất bây giờ là Canada. Đàn con của Mẹ Âu Cơ lúc đó mang tên Inuit, tức tổ phụ người Da Đỏ bây giờ. Chắc các cụ đang cười khi đọc đến đây phải không? Xin các cụ cứ việc cười cho sung sướng. Tôi chưa nói hết ý đâu. Các nhà nhân chủng học đều quả quyết người Da Đỏ gốc Á châu nhưng chưa xác quyết là người Á châu nào. Tôi thì thấy người Da Đỏ mắt không xếch và không nhỏ xíu như mắt người Cao ly, người Tàu hay người Nhật, đây chính là đôi mắt Việt Nam. Ngoài ra, trong các lễ hội, người Da Đỏ đều đội mũ lông chim. Tổ tiên ta cũng đội mũ lông chim rõ ràng, hình khắc trên các mặt trống đồng, như trống đồng Ngọc Lũ đều ghi rõ việc này. Cũng chưa hết chứng cớ đâu. Còn nhiều lắm. Tháng Tư năm 1999, Canada lập thêm một đặc khu mới ở phía bắc, đặt tên là Nunavut. Cụ kỹ sư Đào Trọng Cương, 92 tuổi ngọc, hiện ở Ottawa, bảo tôi rằng Nu-na-vút là tiếng Việt, lấy ý từ bài nu na nu nống, bài hát trẻ con ngày xưa. Cụ Nguyễn Bách Bằng, hội trưởng Hội Cao Niên Thủ đô Ottawa bảo rằng những bài mà mấy cô ca sĩ Da Đỏ hát trong buổi lễ thành lập đặc khu Nunavut đều có giọng ý a ỳ a như giọng hát quan họ Bắc Ninh. Mới đây nhạc sĩ Tạ Đắc ở Toronto tình cờ nghe được đĩa nhạc của Da Đỏ đã bảo tôi rằng tiếng nhạc dân ca Da Đỏ y như nhạc Tây Nguyên của Việt Nam ... Các cụ đã thấy rõ các chứng cớ liên hệ tới gốc Việt Nam chưa?”

Ông Trà Lũ nay biết được con cháu bà Trưng đã di dân tới Indonesia thì giả thuyết của ông đã có thêm chỗ dựa cho mát cái lưng già. Bữa nào tới Toronto chắc phải bắt địa ông này một ly cà phê. Chuyện từ thời người còn đẻ ra trứng mà ông còn kiếm tới thì xá gì đường ra quán cà phê!

Thực ra tôi không thèm một ly cà phê nhưng muốn làm khó ông bạn già chơi vậy thôi. Nếu có ly cà phê tôi sẽ nói chuyện bà…Tưng cho ông vui tuổi già. Bà Tưng là ai? Ngày 16 tháng 6 vừa qua, trên Facebook của mình, một cô gái post một đoạn video dài chưa tới một phút quay cảnh cô nhảy múa trong phòng ngủ. Chỉ trong vòng hai tuần lễ, đoạn video ngắn ngủi này được hơn 30 ngàn người thích, gần ba ngàn người chia sẻ và hơn tám ngàn bình luận!  Cô bé 20 tuổi tên Lê Thị Huyền Anh, sanh năm 1993 tại Nghệ An, đang theo học ngành trang trí nhà cửa tại Sài Gòn đã làm dư luận nóng hôi hổi. Facebook của riêng cô đã có tới 180 ngàn người vào coi. Tôi thử vào thì thấy đây là một cô gái có nhan sắc nhảy múa lung tung một cách hết sức mời mọc và có những phát ngôn về tình dục gây sốc. Báo chí đổ xô vào đưa tin và bình luận. Người khen kẻ chê cứ loạn xà ngầu lên. Thử vào google đánh chữ “Bà Tưng” lập tức hiện lên tới cả triệu mục!

Tại sao cô gái 20 tuổi lại lấy nickname là “Bà Tưng”, tôi có ý tìm hiểu nhưng không thấy ai có thể giải đáp thắc mắc này. Chẳng lẽ lại hỏi ngay chính đương sự. Làm sao có thể được. Bà Tưng đang như được bốc lên tận trời, xá chi câu hỏi tò mò của tôi. Hỏi không ra thì đoán vậy. Mới 20 tuổi mà sao lại…bà?  Không một cô gái nào lại tự đặt cho mình danh xưng“ bà” già nua này được. Tôi đồ chừng cô bé này muốn nhại tên hai vị nữ anh hùng dân tộc. Không hiểu tiếng địa phương Nghệ An có nuốt mất âm “r” trong cách phát âm không. Hay là cô này biết chơi chữ muốn “Trưng” thành “Tưng” để  muốn…tưng tưng. Tưng tưng là chữ gợi hình. Cô bé “Bà Tưng” này hớp hồn dân mạng bằng…triết thuyết không mặc đồ lót. Cô cho là mặc nịt ngực gây nên sự chật chội làm giảm khả năng tăng trưởng và có thể gây nên bệnh ung thư! Ngoài ra cô cho biết là theo nghiên cứu khoa học, nếu giới đực rựa nhìn ngắm ngực phụ nữ sẽ có thể tăng tuổi thọ tới 5 năm. Chắc vì vậy nên cô…làm phúc cho các ông!

Phải công nhận vòng số một của cô là thứ có thể làm nao lòng người. Đẹp phô ra, xấu xa đậy lại. Cô đã biết cách phô sao cho điên đảo cả một cộng đồng mạng đông đảo. Nhưng tại sao lại là “Bà Tưng”, tôi vẫn thắc mắc. Lẽ ra, với chiêu khoe ngực loại king size, cô phải lấy tên là “Bà Tiệu” mới đắt chữ!

08/2013