Chuyện này tôi không hề biết. Đó là các ông bà phú lít, khi nói năng với nhau, lại dùng mật ngữ. Giống như giới giang hồ. Tôi chưa bao giờ được nghe lén các ông bà ấy nói chuyện với nhau. Thấy họ đứng ở đâu, tôi thường kính nhi viễn chi. Cứ tránh xa cho chắc ăn. Cứ như gặp voi vậy! Vậy nên thấy họ a lô trong máy tôi chẳng bao giờ nghe được họ ngôn hay thấy được họ bấm cái chi chi.
Họ không dùng tiếng thông thường như chúng ta mà họ nói bằng mã số. Mã số đó ở giới phú lít Bắc Mỹ thường được gọi là 10-codes (mã số 10). Chuyện chi họ muốn giấu người chung quanh, họ cứ dùng số 10 cái đã, rồi sau đó tùy sự việc mà có những số tiếp theo. Thí dụ như hỏi sự việc giải quyết xong chưa, họ mật mã: 10 - 4.
Như vậy kể là không lộ bí mật nhưng chuyện học mật mã này là một gánh nặng cho việc huấn luyện các anh các chị mã tà mới vào nghề. Thuộc được những con số khô khan đó quả là gian nan. Nhưng đã muốn dấn thân vào cái nghiệp gian nan, lúc nào hiểm nguy cũng cận kề, thì phải cố gắng. Nhưng trong môi trường hoạt động rộng lớn ngày nay, cố gắng này nhiều khi tỏ ra vô ích. Thứ nhất là tại anh chàng internet. Chuyện gì cũng lộ bí mật hết với phương tiện truyền thông mới tinh này. Ngay chuyện làm bom còn được internet chỉ dẫn tận tường thì sá chi ba cái mật mã của các anh bạn dân. Chúng đã bị giải mã hết từ khuya trên thế giới ảo, ai cũng có thể vào tham khảo được. Khi cách giải mã đã lộ toang hoang ra thì còn chi là mật nữa! Thứ hai là vì không có sự đồng bộ trong bộ mật mã của các đơn vị phú lít khác địa phương. Mạnh anh nào anh nấy…mật. Ông nói gà bà nói vịt. Ví dụ như khi anh phú lít Hamilton phát mật mã 10 -13 có nghĩa là chàng nghỉ ăn trưa thì cũng mật mã đó ở phú lít Ontario có nghĩa là yêu cầu cho biết lộ trình và thời tiết! Khi anh mã tà của lực lượng địa phương Peel gặp nguy hiểm sẽ phát ra mật mã 10 – 78 trong khi cũng gặp trường hợp này anh bạn dân ở Hamilton sẽ phát số 10- 33.
Cảnh gà nói chuyện với vịt này nhiều khi làm rắc rối thêm việc phản ứng nhanh khi xảy ra chuyện lớn. Kinh nghiệm vụ 9/11 và vụ bão Hurricane tại Mỹ cũng như vụ biểu tình bạo động phản đối cuộc họp thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo G8 / G20 ở Toronto năm 2010 là những chứng cớ khiến người ta muốn quên chuyện mật mã 10 này đi. Trong các vụ đó, các ông bà cảnh sát thuộc nhiều đơn vị khác nhau đã nhức đầu khi cố hiểu nhau nói chi.
Bỏ hay không bỏ, chuyện còn đang được bàn cãi, dĩ nhiên bằng ngôn ngữ thường chứ không mật chi cả. Phe muốn giữ cho rằng mật mã vẫn cần trong những trường hợp các thầy đội gặp nguy hiểm. Đơn vị Lethbridge đề nghị đơn giản hóa mật mã để việc huấn luyện không còn vất vả cho cả thầy lẫn trò. Chỉ còn giữ bốn mật mã cho các cảnh sát hành sự phòng thân thôi. Ví dụ như khi các nghi phạm đứng cạnh có thể nghe lén các cuộc điện đàm của cảnh sát. Trong trường hợp này họ có thể dùng mật mã để phát đi lời cầu cứu như: “cảnh sát đang bị nguy hiểm trực tiếp” hoặc “cảnh sát cần sự tiếp cứu”.
Tôi biết được chuyện mật mã của các thầy phú lít là nhờ đọc bài báo của ký giả Douglas Quan làm việc cho hãng tin Postmedia News. Nhờ tò mò cứ thấy chuyện gì mật là muốn gí mũi vô nên tôi mới bật ra được một ý nghĩ đáng tiền: vậy là các thầy phú lít cũng y chang như giới giang hồ chăng? Bởi vì cả hai đều dùng mật mã. Các thầy thì dùng 10 – codes còn dân giang hồ thì dùng thứ mà chúng ta gọi là tiếng lóng. Cả hai lực lượng chính giáo và tà giáo đều có chung một nhu cầu chỉ muốn thông tin hạn chế trong giới với nhau. Người ngoài có nghe được thì cũng như vịt nghe sấm. Chẳng hiểu được chút chi.
Tiếng lóng trong giới giang hồ tại Việt Nam cũng có lịch sử đàng hoàng. Nó xuất phát đầu tiên từ giới cờ bạc bịp. Bịp trong việc bài bạc là một sự cộng tác chặt chẽ giữa nhà cái, dân hồ lỳ và bọn cò mồi. Tất cả đóng kịch với nhau để đưa dân đánh bạc nạn nhân bị bịp (tiếng lóng gọi là “mòng”) vào xiếc. Muốn màn kịch chỉ có chúng hiểu được với nhau, con mòng có nghe cũng không hiểu chi, chúng phải dùng tiếng lóng, một thứ mật mã. Muốn thông báo với nhau số tiền bạc con mồi có trong túi hoặc dùng cách nào để lột con mòng cho nhanh, dân bịp cần…lóng. Nếu cứ dùng ngôn ngữ bình thường thì con mòng sẽ hiểu và cao bay xa chạy ngay. Thứ tiếng lóng dùng để lừa lọc này phải thay đổi luôn vì dùng đi dùng lại thì con mòng hoặc giới phú lít sẽ giải mã được dễ dàng. Vậy nên tiếng lóng ngày một phong phú hơn. Và chẳng phải chỉ có giới cờ bạc mà toàn thể dân giang hồ đều có thứ tiếng lóng của chúng.
Tiếng Việt chúng ta được phân chia một cách giản dị ra ba thổ âm chính tính theo miền: Bắc, Trung và Nam. Miền Bắc sử dụng tiếng lóng đầu tiên. Ngay trong “Lịch Triều Tạp Kỷ” đời nhà Mạc đã đề cập tới một loại ngôn ngữ riêng của giới đạo tặc. Nhưng tiếng lóng chỉ phát triển mạnh vào thời kỳ Pháp thuộc, khi rượu và thuốc phiện được nhà cầm quyền độc quyền sản xuất và bán cho dân chúng. Dân chúng nấu rượu hoặc lưu hành chui thuốc phiện sẽ bị khép tội và phạt nặng. Một câu tiếng lóng điển hình thời đó, nói theo thơ đàng hoàng: Phỉnh ơi, phỉnh có thương sô / Thì phỉnh ghếch cớm cho sô ghềnh vòm. Diễn nôm ra có nghĩa: Em ơi em có thương anh, thì em gác công an cho anh trèo vào nhà ăn trộm! Tôi chỉ xin ghi ở đây vài tiếng lóng thông dụng của giới chôm chĩa miền Bắc. “Ôm boong” là giật đồ trên tàu xe. “Bùng” là trốn chạy. “Chểnh” là trèo vào. “Đột” là phá cửa vào. “Vòm” là nhà sẽ vào trộm. “Bè dọc” là tàu có hành trình dài, “bè ngang” là tàu có hành trình ngắn. “Nghẽo” là xe đạp, còn gọi là “xế độp”, sau được nâng cấp để chỉ xe gắn máy.
Giới giang hồ Sài Gòn có hai loại mật mã là “U Đi U Bi” và “Bò Kho”. Loại đầu nghe như tiếng miền Thượng, loại sau thì…nức mũi. Đại khái nguyên tắc của loại tiếng lóng “U Đi U Bi” là chẻ chữ và thêm chữ. Một câu nói thông thường được ghép rải rác vào thêm những chữ “đi” và “bi” làm thành một câu vô nghĩa nếu chúng ta, không phải dân giang hồ, không thể hiểu được. Thử nghe một câu tiếng lóng: thì bắng chi bá đí bó đủ bế bí bóp tí búi bí bến phỉ bái. Đọc thì trẹo họng, nghĩa thì …vô nghĩa. Vậy mà dân giang hồ nói trơn tru nhanh nhẹn như một anh người dân tộc nói tiếng rừng. Người nói đã nhanh, người nghe cũng phải nhanh. Họ hiểu nhau như chúng ta nói tiếng Việt chính cống. Giải mã ra thì câu…thần chú trên có nghĩa đơn giản là: thằng cha đó để bóp túi bên phải. Chìa khóa nào giải ra như vậy? Dễ ẹt! Nói cho oai chứ tôi mù câm nhưng khi biết được chìa khóa thì câu bùa chú trên hết linh ngay. “Thì bắng” là “thằng”, “chi bá” là “cha”, “đí bó” là “đó”, “đủ bế” là “bỏ”, “tí búi” là “túi”, “bến” là “bên”, “phỉ bái” là “phải”. Ngoài ra, bỏ hết các chữ “bí” đi. Điên cái đầu! Kể ra dân tứ chiếng cũng thông minh. Cỡ tôi chắc không đủ thông minh để làm nghề chôm chỉa!
Dùng tiếng “bò kho” coi bộ dễ ăn hơn. Cũng câu trên, thằng cha đó để bóp túi bên phải, nếu…dịch ra tiếng “bò kho” sẽ là: thằng bò cha đó bò để kho bóp bỏ túi bên kho phải kho. Nguyên tắc của loại mật mã này khá giản dị: cứ xóa hết những chữ “bò” và “kho” đi là sáng tỏ liền một khi.
Giang hồ ngoài Bắc vào Sài Gòn phong phú hóa tiếng giang hồ trong Nam theo trường phái Bắc Kỳ. Chẳng “U Đi U Bi”, cũng chẳng “Bò Kho”. Tiếng lóng Bắc Kỳ di cư vụ vào từng chữ rời hơn là vụ vào câu. Ta lại nghe một câu: khứa cổ tại, ở miệt chớm mai chò mình, lương cội đa, đa cội dược. Nghĩa là: con mồi nhiều tiền, ở số 129, làm nhanh chạy nhanh kẻo bị bắt! Để ý một chút, chúng ta sẽ thấy con số 129 được mã hóa thành “miệt chớm mai chò mình”. Hệ thống đếm số của loại mật mã này là: miệt là 1, mai là 2, báo là 3, tứ là 4, nốc là 5, suông là 6, mảy là 7, mám là 8, minh là 9, chò là 10, chớm là trăm.
Dân tứ chiếng ngày xưa coi bộ chịu khó học…ngoại ngữ. Dân giang hồ ngày nay tại Sài Gòn lười biếng hơn nhiều. Họ nhác học thứ tiếng lóng rối rắm ngày xưa. Họ sáng tạo ra những tiếng lóng giản dị hơn nhiều vì họ không có nhu cầu giấu giếm. Dân giang hồ ngày nay thường là dân con nhà, mang tiền đi ăn chơi, thường khoe thành tích trước các em chân dài hoặc ca ve, chỉ cần nói tiếng lóng cho ra vẻ giang hồ. Việc giấu giếm là chuyện họ không thèm quan tâm tới. Nói tiếng lóng để hãnh diện ta đây dân chơi thứ thiệt. Tiếng lóng của họ rất giản dị. Uống thuốc lắc là “cắn kẹo”. Hút bồ đà là “bin”. Hút ketamine là “đập đá”. Thiếu tiền chơi đi cướp giật để mua ma túy là “mua hàng”. Còn mua hàng bằng tiền của mình là “đi cộng”.
Ngoài giới giang hồ ăn chơi, giới buôn bán chợ trời cũng có những tiếng lóng riêng, nghe rất ba đá nhưng nghĩa lại hiền khô. Không hiểu thứ tiếng lóng này có khi chạy long tóc gáy, nhất là các cụ già vốn chân chỉ hạt bột. Ngày tết, một cụ ông từ quê lên thăm vợ chồng con gái ở Hà Nội làm nghề buôn bán chợ trời. Cụ xuống xích lô, trả tiền, vào nhà thì cô con gái hỏi: “Thế nó chém bố mấy nhát?”
Ông bố ngẩn tò te nói lại: “Nào có ai chém bố đâu!”. Ít lâu sau, tới ngày ông cụ phải trở về quê. Tối cuối cùng, hai vợ chồng thương bố về lại quê không có tiền xài nên bàn với nhau ngoài phòng khách. Ông cụ nằm ngủ ở phòng trong, nghe vợ chồng con gái nói chuyện với nhau: “Hay em mở tủ xem đạn dược thế nào, có còn băng nào lia cho bố vài băng.” Ông bố nghe lén được, nhổm dậy bò chạy một mạch, thề sẽ không bao giờ lên thăm vợ chồng đứa con mất dậy đó nữa!
Nói lóng tưởng như là chỉ có giới giang hồ xài. Không hẳn vậy. Chân chất như những nông dân chất phác của đồng ruộng miền Nam cũng lóng như điên. Có điều họ không có nhu cầu giữ bí mật nên tiếng lóng của họ chỉ là trò chơi trong một hoàn cảnh thiếu những thứ giải trí. Lối nói…lóng của họ cũng chất phác giản dị như tâm hồn họ. Đọc câu nói lóng này chắc nhiều người trong chúng ta lật tẩy được liền: chi nặng, bay hỏi, trâu huyền, thờ ương, cờ ách, đờ ây, hờ ai, ngay huyền. Cứ biết đánh vần chữ quốc ngữ là giải mật được ngay tức thì: Chị Bảy Trâu bị thương cách đây hai ngày. Thay vì bỏ dấu trên mỗi chữ, họ đọc dấu tiếp theo vần đó và thay vì đọc chữ họ đánh vần. Nhưng nếu nói nhanh, người nghe không kịp, cũng chẳng hiểu chi hết ráo!
Tiếng lóng ngày nay được giới trẻ dùng trong các trao đổi trên mạng. Những người mới lớn có thế giới riêng, ngôn từ riêng và lối chơi riêng. Chính vì sự phổ biến của tiếng lóng nên đã có nhiều công trình biên soạn để lưu giữ và giải thích tiếng lóng. Hai tác giả Đoàn Tử Huyến và Lê Thị Yến đã trình làng cuốn “Sổ Tay Từ-Ngữ Lóng Tiếng Việt” với lời ghi nhận: “Thực tế tiếng Việt hiện đại cho thấy, tiếng lóng ngày càng mở rộng hơn, được nhiều nhóm xã hội sử dụng hơn, ngày càng có xu hướng phát triển mạnh mẽ, nhất là đối với giới trẻ đô thị và chúng còn được sử dụng nhiều trong tầng lớp trí thức, doanh nhân. Hầu như nhóm xã hội nào có cái gì chung về sinh hoạt hay công việc…thì đều có tiếng lóng của riêng mình. Có thể thấy rằng có bao nhiêu nhóm xã hội thì có bấy nhiêu kiểu tiếng lóng khác nhau. Cho nên ở đây, để tiện lợi cho công việc, chúng tôi quan niệm: tiếng lóng là loại ngôn ngữ riêng của một nhóm xã hội nhằm tạo ra sự tách biệt với những người không liên đới; sự tách biệt này có thể là nhằm mục đích giữ bí mật, nhưng cũng có thể chỉ nhằm tạo ra một nét riêng cho nhóm xã hội mình”.
Nói lái không nhằm mục đích giữ bí mật mà là một cách chơi chữ tuy cũng bắt người nghe suy nghĩ phát mệt. Chơi chữ nên những tay chơi thường là dân văn thơ. Bài thơ nói lái phổ biến nhất, hầu như mọi người đều biết, chỉ có bốn câu. Tôi chép nguyên con ra đây:
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi,
Chú khiêng đi mất chiến khu rồi!
Thi đua sao cứ thua đi mãi,
Kháng chiến lâu rồi khiến chán thôi!
Bốn câu thơ nói lái “chán kháng chiến” này là của ông Hồ Đệ, người đã gây dựng, vào năm 1954, tổ chức Hậu Quốc Dân Đảng ở Quảng Nam, phối hợp với nhóm các chức sắc Cao Đài do ông Cao Hữu Chí cầm đầu để chống Việt Minh. Ông đã bị mang ra xử ở Tòa Án Liên Khu V.
Tôi muốn ghi lại đây cũng bốn câu thơ nói lái, không nổi tiếng, ít người biết, nhưng không phải là không hay. Tác giả là ai, không biết. Nhưng các ông bạn tôi nhất định bắt phải cho nó ra công khai. Thì công khai!
Ngày thì công ngủ, tối công phu,
Đậu muốn làm tương phải kiếm lu
Mấy cô nho nhỏ đang mù đợi
Mấy lão sồn sồn sẽ đạo tu!
Thơ nói lái nhất định không ai qua mặt được bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương. Đã hay mà còn nhiều. Lại chỉ xin chép bốn câu trong bài “Kiếp Tu Hành”:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền tình cũng muốn về tây trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Đã trót nói chuyện thơ…mật, tôi không thể không kể câu chuyện hẹn hò của hai nhà thơ hàng đầu trong văn học Pháp Alfred de Musset và George Sand. Họ là một cặp tình nhân nổi tiếng lãng mạn. Hẹn hò nhau, họ làm thơ…mật mã. Chỉ có họ hiểu với nhau. Sau này người ta mới bật mí cái bí mật trong những câu thơ hết sức lãng mạn họ trao đổi với nhau. Tôi ghi lại đây nguyên văn tiếng Pháp mà không dịch nghĩa vì sợ phá vỡ những âm điệu tình tứ của thơ. Chỉ cần biết đây là những câu của tình nhân gửi cho tình nhân. Alfred de Musset gửi cho người tình George Sand như sau:
Quand je mets à vos pied un éternel hommage
Voulez-vous qu’un instant je change de visage?
Vous avez capturé les sentiments d’un coeur
Que pour vous adorer forma le Créateur.
Je vous chéris, amour, et ma plume en délire
Couche sur le papier ce que je n’ose dire.
Avec soin, de mes vers lisez les premiers mots
Vous saurez quel remède apporter à mes maux.
Nghe tình như vậy nhưng khi giải mã, đó là một đề nghị hết sức trần thế. Nếu chỉ lấy những chữ đầu của mỗi câu thơ, người ta sẽ có câu: Quand voulez vous que je couche avec vous? Em muốn khi mô tôi ngủ vói em?
Nữ sĩ George Sand trả lời ngay tút suỵt bằng hai câu thơ:
Cette insigne faveur que votre cour réclame
Nuit à ma renommée et répugne mon âme.
Cũng giải mã như tám câu trên của Musset, người ta sẽ có câu trả lời gọn thon lỏn cho đề nghị của chàng thi nhân: Cette nuit! Đêm nay!
Tôi thắc mắc sao chàng Alfred de Musset phải dùng tới tám câu thơ trong khi nàng George Sand chỉ xài có hai câu. Thắc mắc này bị mấy ông bạn lõi đời của tôi mắng cho tới tấp: “Chuyện “khẩn trương” như thế thì giờ đâu mà thơ với thẩn cho dài!”
07/2013
|