Tôi uống trà hàng ngày nhưng không thể tự coi là mình
ghiền trà. Đó là một thứ nước uống tốt. Không uống trà, uống thứ khác
cũng được, nhưng không thích. Ăn xong một bữa ăn, uống một ly trà nóng,
bụng dạ bỗng thấy yên ổn. Nhất là một bữa ăn ở tiệm Hoa, vốn nhiều
chất mỡ, ăn xong mà chơi một ly nước trà, hình như mỡ màng trong miệng
chạy đi đâu hết. Cái lối uống trà lấy lợi của tôi như vậy đã làm trà
bị... xuống giá. Cứ như bắt một cô tiểu thư khuê các làm công việc
của một tì nữ. Trà thuộc giòng dõi kênh kiệu hơn nhiều.
Chắc ai cũng
đã từng nghe thấy cách uống trà trịnh trọng của người Nhật. Họ đã nâng
nghệ thuật uống trà lên hàng... tôn giáo. Trà Đạo đã được hình thành
từ thời Mạc Phủ Tướng Quân, thế kỷ thứ 15. Đây là một hình thức hướng
tâm con người đi tìm chân, thiện, mỹ trong thế giới tĩnh tại và tự
nhiên của tâm hồn. Nơi uống trà gọi là trà thất được dựng bằng gỗ,
nằm giữa một khu vườn đầy hoa lá, được dẫn vào bằng những lối đi trải
sỏi. Những người uống trà, được gọi là trà đồ, trước khi bước vào
trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào bon chen, nhập vào
sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết cả những phiền toái của cuộc nhân
sinh.
Chỉ có uống trà mà con người có thể nhấc mình lên
cõi thiền được chăng? Trong truyện ngắn “Uống Trà Đi” nhà
văn Lâm Chương cho nhân vật tên Bi, chỗ thân tình của tác giả, người
tu hành nơi một cái am nhỏ do ông tự dựng nên ở Gò Chùa trong tỉnh
Tây Ninh, luận bàn một cách thú vị với tác giả về Trà Đạo.
“Anh Bi nâng chén trà đưa tôi. Trà mộc, pha loãng. Uống nhạt thếch, chẳng
ra làm sao cả. Tôi nói với anh về kiểu cách uống trà của người Nhật. Họ coi
cái việc uống trà là một nghệ thuật của hàng tao nhân mặc khách. Nghệ thuật
này được nâng lên thành trà đạo, một triết lý sống cao nhã của các thiền gia.
Nghe tôi nói, anh Bi mỉm cười, mắt ngó ra ngoài cửa sổ ngắm mây. Nhưng khi
tôi dứt lời, ý kiến của anh làm tôi sửng sốt.
Anh bảo: “Nghệ thuật chỉ dành cho người làm nghệ thuật. Thiền gia mà quan
trọng cái việc uống trà như một thứ trà đạo, lấy đó làm triết lý sống là loạn
tâm. Đối với kẻ tu hành, uống trà chỉ đơn giản là uống trà mà thôi. Không câu
nệ hình thức. Không rắc rối rườm rà.”
Tôi phản đối:”Đã có bao nhiêu quyển sách bàn về vấn đề này rồi. Anh nói
khác đâu được?”
Anh Bi bình tĩnh: “Sách là do con người viết ra. Thánh nhân viết còn lầm,
huống hồ kẻ phàm phu. Đọc sách mà bị sách vở nhận chìm trong tư tưởng người
khác, không phân biệt điều đúng điều sai, thà đừng đọc sách còn hơn.”
Tôi chưa tìm được lý do nào để phản bác lý của anh Bi.”
Tôi
cũng chưa tìm được lý do nào để không thú vị với cái cách luận sự việc
của... Thày Bi. Tôi vẫn muốn gọi nhà tu hành này một cách nghiêm túc
hơn, nhưng trong suốt truyện ngắn này, tôi chẳng tìm được cái đạo hiệu
Thích này Thích nọ của người mà tác giả gọi chỏng chơ là “anh Bi”.
Có lẽ bởi vậy mà anh Bi gần với tôi hơn, chí ít là trong việc uống
trà. Uống trà là... uống trà. Thế thôi. Chấm hết! Trà của tôi uống
cũng đuểnh đoảng, cũng nhạt thếch như trà của “anh Bi”. Tôi uống trà
cho cái bụng chứ không phải cho cái đầu. Uống trà cho cái đầu, mệt
óc lắm. Nó như một nghi thức kênh kiệu đầy ước lệ. Như cách uống trà
ở Anh chẳng hạn.
Người Anh chỉ biết tới trà bằng đường học lóm của
người Hoa. Vào thế kỷ thứ 18, hải quân Anh đã chiếm được Hương Cảng,
Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu... của Trung Hoa. Đi xâm lược người
nhưng chính đoàn quân xâm lược đã bị trà... xâm lược lại. Họ khoái
trà của Trung Hoa. Và họ đã nhập về Anh cách uống chất đắng này để
trở thành một tập tục phổ biến ở vương quốc sương mù. Rất nhiều lần,
số trà từ Trung Hoa chở về Anh không kịp khiến họ phải tổ chức nhiều
cuộc đua gọi là Đua Trà bằng thuyền buồm để kịp thời chở các loại trà
quý về Luân Đôn. Nữ Công Tước Bedford, tác giả quyển “Năm Giờ Uống
Trà”,
chính là người đã tạo ra phong trào uống trà vào buổi chiều tại Anh.
Ngày nay, trong nhà của giới trung và thượng lưu Anh chúng ta sẽ dễ
dàng bắt gặp những bàn uống trà được trang trí với khăn trải bàn mỹ
thuật, bình hoa tươi và nhất là bộ bình trà làm bằng bạc hoặc sứ men
Trung Hoa kiêu kỳ. Dân Anh uống trà đen trong khi dân Á Châu uống trà
xanh. Tại sao lại có sự thay đổi... màu sắc như vậy?
Thực ra đây không
chỉ là sự thay đổi màu sắc mà còn là sự thay đổi khẩu vị. Sự khác biệt
là do thời gian ủ trà. Muốn tường tận chúng ta phải lòng vòng một chút,
trở lại từ gốc rễ cây trà. Cây trà là một trong những cây thuộc họ Theacae,
lá xanh, hoa màu trắng. Thường thì cây phải có 5 năm tuổi mới được
coi là trưởng thành và có thể cho hoa lợi trong 25 năm hay lâu hơn
tùy sự chăm sóc của nhà vườn. Cây trà thường có độ cao tới hàng chục
thước nhưng để tiện lợi cho việc hái trà người ta phải cắt tỉa thường
xuyên để có chiều cao tối đa khoảng từ 1 thước tới 1 thước rưỡi. Khi
những cây trà đã già thì có thể cắt ngang thân để mầm non nẩy chồi
mới. Với phương pháp này, cây trà có thể thọ được trăm năm một cách
dễ dàng. Mùa hái trà là vào mùa xuân, khi cây đang xanh tốt. Lá trà
hái về đem hong ngoài trời cho héo, sau đó đem ủ, sấy và biến chế làm
trà sống. Tại Trung Hoa có các vùng sản xuất trà nổi tiếng như Giang
Bắc, Giang Nam, Lĩnh nam, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc,
Chiết Giang, Giang Tô, Phúc Kiến... Tại Việt Nam nổi tiếng nhất là
trà Thái Nguyên ở miền Bắc và trà Lâm Đồng ở miền Nam. Loại trà đen
mà dân Hồng Mao ưa thích là loại trà khi hái về được ủ lâu nhất. Ủ
ngắn nhất là các loại trà Nhật, Long Tỉnh, Bích Loa Xuân... Ủ trung
bình có các loại Bạch Hào, Ngân Châm, Bao Chủng, Động Đình, Thiết Quan
Âm, Vũ Di, Ô Long...
Để cho thêm mùi vị, trà được ướp các loại hoa như
lài, ngâu, cúc, sói và nhất là sen. Ngày nhỏ tôi đã được coi mẹ tôi
ướp trà sen. Vì quá nhỏ, tôi không thể nhớ được các công đoạn của một
mẻ trà ướp sen nhưng tôi còn nhớ là phải kéo dài nhiều ngày. Tôi lõm
bõm nhớ lại hình ảnh mỗi buổi sáng những gánh hoa sen thơm ngát được
các chị hàng hoa mang tới nhà, căn phòng ướp âm u nóng với những lò
than để sấy, những buổi cả nhà ngồi tuốt những nhụy sen trộn với trà,
những lúc ngồi nhồi trà vào trong hoa rồi cột những cánh hoa úp kín
vào nhau.
Hương vị ngát lừng của trà đã đưa trà lên cao. Thú
uống trà đã được liệt vào hàng... quý tộc.
Trà đựng trong bình trí nhớ câm
Rót nghiêng từng ngụm nỗi đau thầm
Hòa chung cùng ngụm đau trời đất
Là mỗi ngày ta mỗi điểm tâm
(Mai Thảo)
Ăn uống cho ra điều ra nhẽ, ngoài ngài Tản Đà, chúng
ta phải hỏi han tới nhà văn Nguyễn Tuân. Mà đụng vào cụ Nguyễn Tuân
thì mệt lắm. Trong truyện ngắn “Những Chiếc Ấm Đất” cụ Nguyễn
đã luận về trà. Nhân vật cụ Sáu trong truyện uống trà thì phải pha
bằng nước giếng chùa Đồi Mai mới đúng cách. “Chùa nhà ta có cái giếng này
quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa
nhà đây. Tôi sở dĩ không đi đâu xa được là vì không đem theo được nước
giếng này đi để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thế này:
Là giếng chùa nhà mà cạn thì tôi sẽ cho không người nào muốn xin bộ
đồ trà rất quý của tôi.” Bộ đồ trà của cụ Sáu là chiếc ấm Thế
Đức màu gan gà. Thứ nhất Thế Đức gan gà/ Thứ nhì Lưu Bội, thứ ba
Mạnh Thần.
Ấm pha trà đã có thứ bậc đàng hoàng. Nhưng trà mới là “nhân vật” chính.
Biết được trà là cả một công phu không phải ai cũng có được. Cái công
phu của người ăn mày trong truyện của Nguyễn Tuân là một công phu...
cổ quái.
“Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố
làm thế nào cho gặp được mặt chủ nhân rồi có xin gì thì hắn mới xin.
Có một lần hắn lần vào đến nhà giữa một nhà phú hộ kia, giữa lúc
chủ nhân cùng một vài quý khách đang ngồi uống trà buổi sớm... Hắn
gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn uống
trà tàu với! Mọi người tưởng hắn điên. Nhưng tại sao không ai nỡ
đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà
nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà
mới kia. Hắn nói xong, dỡ cái bị ăn mày của hắn, cẩn thận lấy ra
một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại
đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt một
ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa với bọn họ đến bực nào mới chịu
thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm
chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để...
Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo
nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau mà thưa với chủ
nhân: “Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ
lòng thương, thật kẻ tỳ tiện này không có điều gì dám kêu ca nữa.
Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho có lẫn mùi trấu ở trong. Cho
nên bề dưới chưa được lấy gì làm khoái hoạt cho lắm”. Hắn lạy tạ,
tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm
của hắn, hắn thổi cái vòi ấm rất kỹ lưỡng cất vào bị: thế rồi xách
nón xách gậy, cúi lậy chủ nhân và quan khách xong hắn tập tễnh lên
đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi
chiều hôm ấy, cả nhà đều lấy làm sợ tên ăn mày vì ở lọ trà đánh đổ
tung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu”.
Tôi
đã từng uống trà ở Đông Kinh, Hán Thành. Thì cũng là những căn phòng
nho nhỏ, khách ngồi trên sàn ở Nhật Bản, ngồi trên ghế ở Đại Hàn,
vừa uống vừa đàm đạo với bạn bè. Chẳng có trà đạo trà điếc gì cả!
Vị trà đậm chát kỳ thú. Nhưng đậm đến quắn đầu lưỡi là lần uống trà
tại nhà anh bạn Hà Thúc Sinh tại Cali mươi năm về trước. Bữa đó trà
còn theo tôi về phá giấc ngủ. Chỉ khác lần đầu đi uống cà phê buổi
tối tại Saigon ngày vừa bước chân vào ngưỡng cửa Đại Học ở một điểm:
có cái trần mùng mà nhòm cho qua đêm dài! Lần uống trà tại Hà Nội vào
một đêm cuối năm giá lạnh hơn hai năm trước đây là một ê chề đến não
lòng. Cô tiếp viên đưa ra một cái... ẩm đơn gồm mấy chục loại trà tối
tăm mặt mũi. Toàn những tên thật kêu nhưng chẳng hé lộ cho ẩm khách
một chút gì về... nội dung loại trà. Chỉ đại một cái tên, bát trà đưa
ra có nắp đậy là một thứ nước nâu nâu đục ngầu, uống vào thì không
hiểu phải vượt qua bao nhiêu cây số mới tới cái gọi là mùi trà được!
Trà Saigon ngày nay tôi lại chưa được nếm, chỉ nghe
qua báo chí. Trong các quán trà có các loại trà cổ truyền như trà xanh,
trà lài, trà sen, trà móc câu, trà cỏ ngọt, trà quế... dùng với bánh
đậu xanh, bánh su sê, bánh in... Cũng có khi khách kêu uống các loại
trà dược thảo như trà nhân trần, trà linh chi, trà tim sen, trà rong
biển, trà đào, trà chanh, trà táo... Những loại trà này gọi là trà
nhưng chẳng liên quan gì đến cây trà chính gốc. Ẩm khách không phải
chỉ có các vị đứng tuổi mà còn có những khách trẻ kể cả những người
ở ngoại quốc về. Họ cần một không gian trữ tình, một khung cảnh tĩnh
lặng, một thời gian để tâm hồn lắng xuống. Anh Sĩ Hoàng, chủ nhân quán
trà Điểm Một Thời rất nặng lòng với trà: “Tôi muốn mang đến một sự
thuần Việt cao nhất có thể cho khách, Vì vậy, pha trà cần sự tỉ mỉ.
Chỉ cần một sơ suất nhỏ chén trà sẽ không được như ý ngay. Ngoài việc
chọn trà mộc và cách ướp hương cho các loại trà thì nước pha trà là
điều quan trọng bậc nhất. Ông bà ta dùng giọt sương trên lá sen hay
dùng nước mưa. Nhưng đến chúng ta thì loại nước đó cũng ô nhiễm rồi.
Chỉ có dùng nước suối, nuớc khoáng để pha trà”.
Trà trong môi trường
của chúng ta hiện nay hình như đã không chỉ là một cái thú mà là một
cách ngừa bệnh. “Nhất nhật nhất trản trà
/ Lương y bất đáo gia”. Chỉ một chén trà mỗi ngày có thể nghỉ
chơi anh tu bíp! Thật vậy, trà là một dược chất đa năng cho sức khỏe.
Người ta uống trà để giảm chất béo vì trong trà có chứa các chất làm
giảm lượng mỡ trong cơ thể con người. Theo nghiên cứu của một số nhà
thảo dược học Trung Hoa thì lượng mỡ trong người một người uống trà
trong vòng 10 năm thấp hơn 20% so với những người không uống. Nơi nữ
giới sự giảm mỡ còn rõ ràng hơn: người uống trà giảm được đến 30% lượng
mỡ trong cơ thể! Các nhà nghiên cứu Tây phương cũng đã nhảy vào vòng...
trà. Tổng hợp trong 13 bản nghiên cứu đã được phổ biến, người ta đã
ước lượng là những người uống từ 3 ly trà trở lên mỗi ngày có thể giảm
được 11% nguy cơ bị bệnh tim. Những kết luận này đã khiến Hội Nghị American
College of Cardiology Scientific Sessions năm nay phải đưa trà
vào nghị trình thảo luận. Các nhà khoa học của Đại Học Arizona đã làm
thí nghiệm cho thấy trà có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ngực,
phổi, da và miệng. Họ cho một số tình nguyện viên có hút thuốc lá bị
tổn hại DNA uống 4 ly mỗi ngày theo ba nhóm. Nhóm uống trà xanh, nhóm
uống trà đen và nhóm uống nước lạnh. Kết quả cho thấy nhóm uống trà
xanh đã giảm được sự tổn hại DNA. Chính những DNA tổn hại này đã dẫn
các tế bào lành trở thành ung thư. Các nhà khoa học Anh và Tây Ban
Nha vừa tìm ra hợp chất EGCG có trong trà xanh có thể ngăn chặn các
tế bào ung thư phát triển bằng cách khống chế một enzyme đặc
biệt gây bệnh ung thư. Họ cũng cho biết chất này chỉ là một trong số
rất nhiều hợp chất chống ung thư có trong trà xanh. Khám phá này được
coi là lần đầu tiên khoa học mới phát hiện ra một hợp chất xác định
có tác dụng như thuốc chống ung thư, mở ra triển vọng chế tạo thuốc
điều trị ung thư hiệu quả dựa trên cấu trúc các phân tử EGCG. Tuy nhiên,
các nhà khoa học cũng khuyên các phụ nữ không nên uống trà xanh trước
và trong thời kỳ đầu mang thai vì trà xanh làm giảm hiệu quả của acid
folic, một chất ngăn ngừa nguy cơ nứt đốt xương sống và rối
loạn ống thần kinh ở trẻ.
Những lợi ích của trà cho sức khỏe con người
đã đưa trà vào một loại thức uống khác. Nó không còn chỉ là một thú
vui, một tập tục quý phái, một cái đạo. Nó đã bước xuống một nấc.
Từ nấc vương giả nó đã hóa thân thành một người bạn ích lợi cho chúng
nhân.
Ban sơ thế điệu phiêu bồng
Về sau rớt hột chùm bông quê nhà
Bây giờ một lúc uống trà
Ăn qua loa chút gọi là tái sinh
(Bùi Giáng)
03/2005