Bịt
Chai
Chí
Chỉnh
Chôm
Đốt
Generic
Hơi
Khóc
Lạ
Lộ
Masterchef
Mùi
Nạt
Nhất
Nude
Pháp
Phô
Sợ
Tài
Táng
Tật
Tên
Thần
Thật
Thiếu
Thưởng
Tua
Uống
Về

PHÁP

1.

Tôi muốn đặt tên cho loạt bài này là “Paris” nhưng bài viết lại đề cập đến  những nơi khác trên đất Pháp ngoài Paris nên rất khiên cưỡng nếu cứ khư khư theo ý thích của mình. Tội do các ông nhà thơ Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng mà ra. Khoảng  cuối thập niên 1950, hai ông nhà thơ này đã mang về Sài Gòn một Paris rất lồng lộng nhưng cũng rất gần gũi đáng yêu làm say mê lũ sinh viên chúng tôi. Paris trong lòng chúng tôi như một người yêu bé nhỏ, rất xa cách nhưng cũng rất gần gũi.

Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?

Đó là em Paris của Nguyên Sa. Cung Trầm Tưởng cũng mang về Sài Gòn một em Paris.

ga Lyon đèn vàng
tuyết rơi buồn mênh mang
cầm tay em muốn khóc
nói chi cũng muộn màng
hôn nhau phút này rồi
chia tay nhau tức khắc
khóc đi em. khóc đi em
hỡi người yêu xóm học
để sương thấm bờ đêm
đường anh đi tràn ngập lệ buồn em...

Vậy là chúng tôi, mỗi người, đều ôm một em Paris trong lòng như ôm một ánh trăng. Rất xa nhưng rất gần. Tới Paris, tôi lần theo bước chân của hai nhà thơ đã làm mê muội thời thanh xuân tôi. Bỏ ra hai ngày lân la ở khu Saint Michel và Saint Germain, lúc đi dọc theo bờ sông Seine, lúc vào sâu trong những đường hẻm chật chội không có xe cộ lưu thông giữa lòng Xóm Học, tôi đã thực sự thỏa mộng ước thời sinh viên. Chỉ phải cái hơi muộn. Tuổi trẻ đã bỏ tôi từ lâu. Để tự an ủi, tôi nghĩ là phải tới tuổi tôi bây giờ mới thấm với những hồi ức. Khi hồi ức hiển hiện ra trước mắt, nó có cái vị mặn mà của một chút tiếc nuối, một chút vấn vương, một chút thỏa mãn. Nếu tôi tới đây vào những ngày còn xuân, tính ham vui sẽ cuốn tôi theo nhịp sống xô bồ, thơ thẩn đâu còn trong đầu, tội cho hai ông thi sĩ đã mang Paris về cho tôi. Như ông bạn Kiệt Tấn chẳng hạn. Ông cũng từ Quebec, Canada tới Paris như tôi nhưng ông tới vào những ngày ông còn là sinh viên, tuổi còn xanh, nên ham chơi, có nghĩ ngợi chi đâu. “Hồi đó Mít nhảy đẹp hết xẩy, nổi tiếng ở Xóm Học (Quartier Latin). Đặc biệt có một cô đầm vóc người nhỏ nhắn thon gọn, mặt mũi xinh xắn, nhảy với Mít ăn khớp như đã có tập dượt với nhau từ trước. Cô ta nhảy với một anh đoạt giải “bi-bốp”, nhảy với một anh khác đoạt giải “cha-cha”. Cô ta quay hai vòng, đứng lại thật gọn gàng rồi quay một vòng ngược lại, chiếc váy màu xanh lục thẫm xòe ra thấy mê luôn. Dù đoạt giải nhưng không thấy cô ta nhoẻn miệng cười, chỉ nhếch mép lên một chút tượng trưng. Tài nghệ tôi xoàng xĩnh nên đêm đó phần lớn tôi chỉ ngồi coi”. Ông bạn nhà văn Kiệt Tấn của tôi không nhảy mà vẫn thắng cuộc. Cô đầm dễ thương đó chính là Diane, Người Em Xóm Học của anh. Cứ tưởng tượng bây giờ mà tôi có một Diane thì…chắc chết! Chết thì chết, tôi vẫn xông xáo trong những đường hẻm của Xóm Học. Tôi len lỏi giữa những quán cà phê và những tiệm ăn được trang trí bằng những đồ tầm tầm cũ rích. Một bánh xe bò, mấy cái bình đựng nước, chiếc đồng hồ cổ lỗ sĩ, vài ba bức tượng mang dấu rêu phong, cộng với những chiếc bàn chiếc ghế kiểu xưa rích xưa rang. Những đường hẻm ăn uống, mặt đường lát bằng những viên đá nho nhỏ có cái thân mật như con hẻm Casino Sài Gòn xưa. Những nhà hàng kích thước khiêm nhượng, trước cửa treo những bản thực đơn to lớn với giá tiền cũng dễ nhìn không kém. Họ cạnh tranh nhau từng chút một nên giá cả cũng ăn khớp với nhau. Loanh quanh một hồi, tôi bước vào một quán ăn có lối trình bày bắt mắt. Tôi khoái những chai rượu đưa đít chai ra ngoài nằm chật những ngăn gỗ ô vuông làm thành một thứ trang trí lạ mắt phủ kín một phần bức tường. Chẳng hiểu xưa kia có văn nhân vua biết mặt chúa biết tên nào đã từng ngồi nơi chiếc ghế tôi đang ngồi không?


Xóm học

Tôi ghé nhìn vào những sập báo trên lề đường cổ kính với cái vòm rất Paris. Giữa nắng hè chói chang tôi bước bên tả ngạn sông Seine, khu Quartier Latin, nhìn vào từng chiếc quán nhỏ cố tìm xem ngày xưa những Jean Paul Sartre, Ernest Hemingway, Pablo Picasso, Paul Verlaine, F. Scott Fitzgerald đã lê la trong những quán nào. Tôi chỉ thấy những ly rượu, những chai bia ngổn ngang trên bàn và những ông tây già ngồi ngắm thiên hạ đi qua đi lại.

Tôi còn toan tính đi tới ga Lyon coi đèn của ga vàng ra sao mà ông Cung Trầm Tưởng đã làm chúng tôi dệt mộng khi lên xe tiễn em đi. Nhưng khi đi tới Gare de l’Est tôi đã kinh hoàng với sự xô bồ nhộn nhịp và với cái nhớp nháp của khung cảnh một nhà ga nên tôi đã không tới ga Lyon. Sợ mất đi bến ga trong lòng tôi.

Tôi trở lại Xóm Học và tới coi Đại Học Sorbonne. Mùa hè, trường đóng cửa. Chiếc tháp cao của trường khuất lấp sau dàn giáo của nhà thầu sửa chữa. Chẳng một bóng sinh viên lai vãng. Chỉ có các du khách tấp nập nghển cổ nhìn ngôi trường hầu như ai cũng nghe nói tới. Muốn thấy sinh viên phải tới những tiệm fast food như McDonald hay Burger King. Đó là những em bé, tóc vàng sợi nhỏ, chắc thuộc dạng túi rỗng nên không có hè, phải làm thêm để kiếm sống. Nhìn cái lúng túng của các em khi tiếp khách mà thấy thương. Thương thiệt! Vì dân sinh viên chúng tôi ngày xưa đâu có hè, cũng làm như điên. Nhưng đó là ở Việt Nam. Ở bên tây khác. Nghỉ hè là một điều bắt buộc. Đó hình như là luật không thành văn. Tháng tám, Paris chỉ còn du khách. Cửa tiệm cái đóng cái mở, khập khiễng như hàm răng méo mó của người già. Đường về miền Nam nước Pháp xe cộ mắc kẹt đến sốt ruột. Vậy nên các em bé sinh viên không có hè mới đáng thương nhiều hơn nữa.


Đại học Sorbonne

Đến Paris, với tôi, đã là nghỉ hè, nhưng tôi cũng theo đoàn xe đông đảo xuôi Nam làm một cú nghỉ hè đúp. Ra vào Paris phải qua một cái cửa, tiếng tây gọi là Porte. Tôi thích dịch là “cửa ô”. Nghe cho ra vẻ Hà Nội. Hà Nội chỉ có năm cửa ô mà Tạ Tỵ và Phạm Đình Chương đã xưng tụng trong thơ và nhạc. Paris thì vô số cửa ô. Tôi ra vào Paris bằng cửa ô Porte d’Orleans. Cuộc Nam tiến đưa tôi tới thành phố Lyon. Thành phố lớn và đẹp. Tôi thích nhất phương tiện lưu thông công cộng của thành phố. Đó là những đoàn tàu buýt chỉ vài toa, chạy bằng điện, sạch như lau như ly. Từ tầng cao của khách sạn, đoàn tàu bóng loáng đẹp đẽ, nhất là vào buổi tối khi lên đèn, trông đẹp như một món đồ chơi. Tôi không có dịp…ngự trên những con tàu xe buýt sạch sẽ này. Nhưng ở Paris thì tôi lên xuống đủ các phương tiện di chuyển công cộng như tàu RER, métro, xe buýt xoành xoạch suốt ngày. Du khách có vé gọi là Paris Visite có thể mua để dùng cho một, hai, ba hoặc năm ngày là tối đa. Vé dùng cho tất cả các loại phương tiện công cộng. Hoạt động của các phương tiện giao thông này được chia thành từng vùng. Thường thì mua ba vùng, từ zone 1 tới zone 3, là có thể đi thăm khắp vùng trung tâm Paris với các thắng cảnh và di tích nổi tiếng. Muốn thăm thú xa hơn như Điện Versailles, Disneyland Paris, Fontainebleau…thì phải mua vé bao gồm tất cả các vùng. Tôi mua vé 3 vùng cho 5 ngày phải trả khoảng 31 Euro. Tàu RER dơ dáy hơn métro và xe buýt nhưng rất tiện lợi. Du khách tới và rời Paris có thể dùng RER để đi tới ngay hai phi trường Orly và Charles de Gaulle mà không phải đổi ga phiền phức với những va ly hoặc túi xách lỉnh kỉnh. Khoảng vài năm nay, Paris có thêm loại tàu điện vòng đai chạy vòng quanh thành phố. Loại tàu này nối tất cả các cửa ô và các đường xe buýt và métro. Tàu chạy chậm nhưng rất sạch sẽ. Tất cả các phương tiện giao thông công cộng của Paris đều nối kết với nhau thành một mạng lưới đi tới đâu cũng được. Nhìn vào bản đồ nối kết thì thấy rối mắt nhưng đi vài lần là quen. Cái làm tôi phục nhất trên các phương tiện này là bản thông tin điện tử. Tại các ga có bản thông tin báo trước cho khách hàng biết thời gian phải chờ cho chuyến tàu hoặc xe kế tiếp làm cho hành khách rất yên tâm. Đúng giờ ghi là tàu hoặc xe tới. Đúng bóc không sai một phút! Ngay tại các trạm xe buýt cũng có những bản thông báo này. Lên xe hoặc lên tàu, khách còn được thông báo thời gian tới cho từng trạm. Vậy là yên chí lớn, chẳng sai hẹn một ly.

Cuộc Nam tiến còn đưa tôi qua những địa danh làm nức mũi các đệ tử của Lưu Linh: Sauvignon, Chateauneuf, Bourgogne, Beaujolais. Toàn những thứ đóng chai màu hổ phách. Xe chạy nhanh không làm mùi rượu bám được vào người tôi nhưng từ nay nhấp ly rượu chắc tôi sẽ có thêm được hình ảnh những cánh đồng nho xanh rì hai bên đường.

Nhìn tấm bảng ghi khoảng cách của nơi sắp tới có tên Avignon, tôi bỗng giật mình, vội sửa soạn sẵn máy chụp hình. Tôi phải nháy được cây cầu đã nằm trong bài hát đồng dao quen thuộc từ thời nhỏ dại. Xe chạy qua, chẳng thấy cây cầu đâu, chỉ thấy nằm chình ình cửa tiệm Ikea với hai màu xanh vàng đã thành ước lệ. Phải coi cho được cây cầu danh tiếng này, nhất là mấy đứa cháu trên xe đã nghêu ngao bài đồng dao. Xe vào thành phố. Đây là thủ đô của vùng Côte du Rhône. Cây cầu bắc qua sông Rhône tràn đầy du khách tuy nó chẳng đưa họ tới đâu. Cầu đã gẫy mất một nhịp sát một bên bờ. Tôi nghĩ chắc nhiều người còn nhớ bài hát mà chúng ta đã từng hát trong trường học. Tôi chép lại hai khổ đầu của bài hát để biết đâu có thể nhắc lại chúng ta những ê a ngày nhỏ.

Sur le pont d’Avignon
L’on y danse, l’on y danse
Sur le pont d’Avignon
L’on y danse tous en rond
Les beaux messieur font comm’ca
Et puis encore comm’ca

Sur le pont d’Avignon
L’on y danse, l’on y danse
Sur le pont d’Avignon
L’on y danse tous en rond
Les bell’ dames font comm’ca
Et puis encore comm’ca.

Bài hát làm tôi nhớ lại một quãng đường khổ nhọc sau khi trở về từ những trại gọi là “học tập cải tạo”. Được gọi là “tạm tha” cho trở về với gia đình nhưng chúng tôi bị công an địa phương nơi cư trú hành cho nhỏ xác bằng các chuyến đi thủy lợi và bằng những hăm dọa khi trình diện mỗi tuần. Hăm dọa lớn nhất là phải đi vùng kinh tế mới nếu không có việc làm ổn định. Ai dám thuê những người có án “cải tạo” nên chúng tôi thường phải bỏ tiền để chui vào những tổ hợp tre nứa, mành sáo, bột mì nay còn mai mất. Cuối cùng, chịu không thấu những lo toan dằn vặt, chúng tôi phải kiếm cách thoát ra khỏi tình trạng nửa sống nửa chết này. Hầu như những người có bằng cấp Đại học trước đây đều chui vào cái gọi là  Hội Trí Thức Yêu Nước cho yên thân. Hội đã đưa chúng tôi đi dạy tại các trường trung học sau khi tham dự một khóa gọi là “bồi dưỡng chính trị Mác Lênin” trong sáu tháng. Sáu tháng ròng rã chúng tôi nín thở qua sông cho tới ngày được gọi là tốt nghiệp. Ngày lễ tốt nghiệp, mỗi tổ phải có một màn trình diễn văn nghệ mãn khóa. Tổ Pháp văn đã trình diễn một màn gồm liên khúc các bài dân ca Pháp trong đó có bài Sur le Pont d’Avignon. Các bạn tôi phải vẽ râu vẽ ria, lên sân khấu nhảy múa như những đứa con nít nhiều tuổi! Nhìn các bạn nhảy, tôi thấy xót xa trong lòng. Thôi thì cũng gọi là gian nan, gian nan nào chẳng nhuốm mùi đắng cay.

Đứng trên chiếc cầu gãy nhịp, tôi nhớ tới cái loi choi của các thân già hóa thân làm con trẻ năm xưa. Tại sao chiếc cầu này nổi tiếng? Có lẽ chỉ nhờ bài hát. Nó chẳng có một…chiến công gì trong lịch sử nước Pháp. Vậy mới biết sức mạnh của văn nghệ. Tưởng như chơi chơi mà hóa ra sống đời.

Cầu Avignon, còn có tên là cầu Saint-Bénezet, được xây vào khoảng từ năm 1171 tới 1185, nối liền vùng Avignon và Villeneuve-les-Avignon vốn cách nhau bằng con sông Rhône. Cầu bị hư hỏng nhiều lần vì những trận lụt và hoàn toàn bất khiển dụng từ năm 1668 sau một cơn lụt lớn tai hại. Chiếc cầu sở dĩ mang thêm tên Pont Saint-Bénezet là vì chính ông thánh này, khi còn là một mục đồng trong vùng, đã có ý nghĩ xây chiếc cầu nối liền hai bờ sông. Theo truyền thuyết thì chính các thiên thần đã điều khiển việc xây cất. Cũng vẫn theo truyền thuyết thì ý tưởng viển vông của anh mục đồng Bénezet thoạt đầu đã bị dân chúng trong vùng chế giễu nhưng anh đã chứng tỏ một cách hào hùng  bằng việc nâng một tảng đá thật nặng. Vậy là các nhà có máu mặt trong vùng đã ủng hộ anh hoàn thành công trình nặng kí này. Khi anh chết, thi hài của anh được chôn ngay trên cầu, trong một nhà nguyện được thiết lập ngay giữa cầu. Tôi bước vào nhà nguyện nay chỉ còn chiếc bàn thờ đá. Nhà nguyện này do dân thuyền chài trên sông xây dựng và vì thánh quan thầy của họ là thánh Nicholas nên nhà nguyện được đặt tên là Nicholas. Nhà nguyện bị bỏ hoang không có hành lễ vì sự…lạnh cẳng của các tu sĩ. Họ  lo sợ chiếc cầu sẽ sụp bất tử nên không cử hành lễ trên cầu. Khi tôi đang quay hình trên cầu thì có hai cô gái dắt tay nhau dựa vào thành cầu hát bài Sur le Pont d’Avignon. Tiếng hát nho nhỏ không đủ vang lên trên dòng sông Rhône đang hững hờ chảy phía dưới nhưng cũng làm các du khách tấp nập trên cầu dừng lại nghe. Tôi chĩa máy quay vào hai ca sĩ tài tử nhưng hai nàng khoát tay không đồng ý. Hai đứa cháu tôi, một trai 7 tuổi và một gái 5 tuổi, cầm tay nhau nhảy theo tiếng hát điệu vũ chúng đã được học trong trường. Tiếng vỗ tay cổ võ khi điệu nhảy chấm dứt. Chúng đã có một kỷ niệm thích thú về chiếc cầu mà có lẽ chúng tưởng không hiện diện trên trái đất này.

Tính cho rốt ráo thì chiếc cầu cũng có tí lịch sử. Đó là nó đã từng là chiếc cầu xây duy nhất nối liền thành phố Lyon và vùng biển Địa Trung Hải. Vào thế kỷ thứ 14, nó là chiếc cầu sông…Gianh chia đôi hai vùng lãnh địa. Một bên được gọi là Comtat Venaissin do các Giáo Hoàng kiểm soát và một bên là nước Pháp dưới quyền cai quản của các triều vua Pháp. Hồi đó hai bên đầu cầu đều có các pháo đài do binh sĩ canh giữ cẩn thận. Bên phía lãnh địa của các Giáo Hoàng, đầu cầu dẫn vào một chiếc cổng thành lớn được xây cất vào thế kỷ thứ 13 đâm thẳng vào cấm thành, nơi các Giáo Hoàng dùng làm Tòa Thánh từ năm 1309 khi Giáo Hoàng Clement V, được bầu vào năm 1305, không muốn đối đầu với vụ khủng hoảng ở La Mã sau khi ông được tấn phong. Thời kỳ này được gọi là thời “Giáo Hoàng Avignon”. Cấm thành Palais des Papes vẫn sừng sững tới ngày nay, phủ bóng trên thành phố nhỏ.

2.

Nói tới Công giáo, chúng ta thường nghĩ ngay tới những Giáo Hoàng La Mã. La Mã là thủ đô của Ý đồng thời có một xẻo đất được cắt ra làm thành một nước gọi là Vatican. Tôi đã từng có dịp tới “biên giới” của Ý và Vatican. Đó là một hàng rào đơn sơ chẳng cần lính tráng canh gác. Buổi tối một ngày tháng 8 năm 2008, tôi tới biên giới này và đã tinh nghịch chơi trò…vượt biên. Tôi đứng bằng một chân bên phía Vatican và một chân bên phía nước Ý. Chẳng có tới một ông cảnh sát thổi còi tu huýt khi tôi chân Vatican chân Ý!

Vậy mà khi tới Avignon tôi mới biết là có một Tòa Thánh ngoài La Mã. Cả một công trình xây cất đồ sộ đập vào mắt tôi như muốn đè bẹp chiếc xe khi vừa lăn vào thành phố Avignon. Đó là Palais des Papes. Nơi đây đã có tới bảy triều Giáo Hoàng trị vì trong 67 năm từ 1309 đến 1376. Chuyện bắt đầu vào năm 1305, khi Giáo Hoàng Clement V, người Pháp, được bầu. Vị này ở lì tại Pháp không chịu tới  La Mã vì có sự tranh chấp nội bộ. Bốn năm sau, năm 1309, Giáo Hoàng Clement V cho dọn triều đình về Avignon. Cả bảy Giáo Hoàng nối tiếp nhau trị vì tại Avignon đều là người Pháp và chịu thần phục hoàng gia Pháp. Ngày 13 tháng 9 năm 1376, Giáo Hoàng Gregory XI mới rời bỏ Avignon trở về La Mã chính thức chấm dứt thời kỳ giáo hoàng Avignon. Nhưng chỉ hai năm sau, năm 1378, người kế vị của Giáo Hoàng Gregory XI là Giáo Hoàng Urban VI lại có tranh chấp với các Hồng Y nên lại bỏ La Mã về lại Avignon lập nên triều đại Avignon thứ hai. Triều đại Avignon…nối dài này không được coi là chính thống và chỉ tồn tại được 39 năm với hai vị Giáo Hoàng đối nghịch với La Mã. Vị cuối cùng là Giáo Hoàng Benedict XIII.


Palais des Papes ở Avignon

Khi tôi tới Avignon thì nơi đây chỉ còn là di tích lịch sử đã được tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc liệt vào loại di sản thế giới. Di tích này mở cửa hàng ngày cho du khách tới coi. Cũng là một du khách, dĩ nhiên tôi cũng muốn vào coi nhưng vì lúc đó đã hết giờ mở cửa tuy trời mùa hè còn sáng trưng. Di tích lịch sử đều là nơi bắt du khách mở hầu bao mua vé vào coi. Tôi không được mở túi tiền nên chẳng biết vé vào cửa giá bao nhiêu.

Nghỉ ngơi là một nét lè phè của dân Tây, vốn dĩ là một dân tộc thích nhàn nhã. Các cửa hàng và công sở đều đóng cửa nghỉ trưa cho nhân viên làm một cú la-siết. Mỗi tuần làm việc có 35 tiếng. Sang tới Paris tôi mới biết là tất cả các ngày lễ mà người Công giáo gọi là lễ trọng như lễ Thăng Thiên, Hiện Xuống, lễ Các Thánh…đều là ngày nghỉ. Nói chi tới lễ Phục Sinh và Giáng Sinh, nghỉ quá đi chứ! Lối nghỉ lễ này ngày xưa, khi nước ta còn dưới quyền đô hộ của Pháp đều có, y chang như mẫu quốc. Tới khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm cầm quyền ông mới ra lệnh dẹp các ngày lễ mang tính cách tôn giáo này. Những ngày nghỉ rơi vào ngày thứ sáu hoặc thứ ba là một dịp nghỉ bắc cầu mà dân tây gọi là “faire le pont”. Làm việc khỏe re như vậy mà tuổi về hưu chỉ có 60 chứ không phải 65 như dân Mỹ và Canada. Chính phủ Pháp định nâng tuổi về hưu lên 62 thì toàn dân biểu tình phản đối. Trong khi đó bên Mỹ và Canada đang nâng dần tuổi về hưu lên tới 67 mà dân chúng ngậm câm chịu trận. Làm dân tây sướng thật! Thôi thì kiếp sau xin làm ông tây cà lồ cho nhàn nhã tấm thân.

Nhàn nhã thiệt chứ không nói chơi. Cứ leo lên xe buýt ở Paris là biết ngay. Trên xe chỉ có mỗi ông tài xế mà ông này chỉ biết lái xe, không cần biết tới hành khách. Cửa lên của xe buýt có một cái máy scan cho thẻ xe hàng tháng và một cái máy cho những người đi vé lẻ. Cứ đút cái vé vào lỗ, chiếc vé chui vào rồi chui ra, cầm chiếc vé bỏ túi là xong. Hành khách lên xuống ai scan vé ai không scan vé ông tài xế không thèm biết tới. Đã nói ông chỉ có nhiệm vụ lái xe thôi mà! Cạnh hai chiếc máy scan là một tờ giấy nhắc nhở. Rất tây. Tôi đã scan vé, bạn thì sao? Có nhiều bạn tỉnh bơ coi chuyện vé viếc như pha. Tôi đã nhìn thấy, hầu như trên mọi chuyến xe tôi đã…kinh qua, nhiều hành khách rất coi thường chuyện vé. Họ tỉnh bơ lên xe, tỉnh bơ xuống xe trước mắt ông tài xế chỉ biết cái tay lái. Mấy ông tài xế xe buýt ở Montreal thì khác. Ngoài việc lái xe, họ còn  phải kiểm soát hành khách lên xuống. Ai làm lơ không có vé là bị gọi tới nhắc nhở liền. Có bạn sẽ thắc mắc: vậy thì ở Paris ai thèm mua vé làm chi cho tốn tiền. Không có vé cũng hơi hồi hộp một chút. Đó là nếu gặp các ông đi soát vé bất thần thì sẽ bị phạt 80 euro. Nhưng các ông này sao mà hiếm! Trong mười ngày leo lên leo xuống xe buýt tại kinh đô ánh sáng, tôi chỉ gặp các ông này có một lần duy nhất. Trông các ông này hãi lắm. Đồng phục, lon lá cứ như nhân viên công lực. Mỗi ông lại lủng lẳng một chiếc dùi cui và một máy scan vé. Họ đi hai người, chia nhau đi hỏi vé và nếu nghi ngờ là scan ngay tại chỗ. Thái độ hùng hùng hổ hổ của họ cứ như hỏi giấy tờ dân trốn quân dịch ở Sài Gòn thuở xưa. Trận đánh bữa đó của hai ông kiểm soát này là một thất bại. Trên chuyến xe ra miền ngoại ô Paris chỉ có bảy hành khách. Bốn tên Mít chúng tôi, một bà luốc luốc và một ông đen. Khi hai ông đang soát vé ở cuối xe thì có một ông đen leo lên, tỉnh bơ kiếm chỗ ngồi. Nhìn thấy hai ông nhà…buýt dưới cuối xe, ông tỉnh ngay, làm bộ tìm vé hết túi áo này tới túi áo khác. Dĩ nhiên có đâu mà tìm. Ông vội móc tiền ra mua vé nơi ông tài xế. Vậy là an toàn. Lớ ngớ ông này mà ngồi trên xe trước khi hai ông kiểm soát lên là dính chấu liền. Cứ tám chịch tiền phạt, đau hơn hoạn! Đợt…hành quân coi như thất bại, không nắm cổ được một tên trốn…quân dịch nào.

Say mê kể tội lè phè của các ông tây bà đầm, tôi quên ngắm cảnh hai bên đường trên xe đang xuôi miền Provence. Toàn một màu xanh rì của những vườn nho. Thỉnh thoảng vàng úa một vạt hướng dương. Sao họ trồng hướng dương nhiều thế, chắc không phải để bán hoa. Tôi đoán có lẽ họ trồng lấy hạt cho dân chúng cắn tí tách khi coi TV. Nhiều chặng có cảnh đẹp như tranh. Xe càng đi sâu vào miền Nam nước Pháp, cảnh càng hoang vu. Chiếc GPS trên xe chỉ loanh quanh đường tới căn nhà mà chúng tôi đã thuê trên internet. Nhiều quãng đường rất…nhà quê, thỉnh thoảng mới có một căn nhà nép mình sau những tàn cây xanh. Xe cứ vòng vèo trên quãng đường quê. Anh GPS coi bộ lúng túng. Xe thậm thụt lúc tiến lúc lùi. Trời đã gần tối, anh GPS dẫn tới một con đường đất lởm chởm. Căn nhà cho cả chục người ở, có piscine nước nóng ở trong, piscine nước lạnh ngoài trời, trông hình trên máy computer đẹp như mơ, mà sao lại ở nơi khỉ ho cò gáy này. Cuối cùng, Chúa ôi, cũng tới nhưng tới…bên hông nhà. Ông chủ nghe điện thoại vội mở chiếc cửa bé xíu nơi hàng rào bước ra. Ông chỉ cho đi vào lối cửa chính. Mèng đéc ơi! Hóa ra nhà người ta có chiếc cửa sắt rộng ngay bên lề con đường nhựa phẳng phiu. Ai mà ngờ đưọc anh GPS lại chơi trò…du kích!

Căn nhà chúng tôi thuê trong một tuần oách thật. Oách một cách thôn dã. Trang trí toàn những đồ…phế liệu. Tôi nhìn lại được những chiếc nồi đồng được đánh bóng loáng treo lủng lẳng trong bếp, những chiếc xẻng cuốc xỉn trên tường, những chiếc bàn ủi xưa rích xưa rang chỉ là một miếng sắt có quai trên lò sưởi…cổ kính. Trong cái quê lại có những tiện nghi tân tiến. TV mặt phẳng loại 50 inches trong phòng khách, TV nhỏ hơn trong phòng ngủ. Phòng tắm trắng bong mới tinh. Điện thoại có thể gọi free về Canada và Mỹ. Và điều bất ngờ là có cả wifi!

Sáng sáng, ngồi ngoài vườn ngắm hoa muôn sắc khắp khu vườn rộng trước nhà, tôi được nghe tiếng gà gáy. Buổi trưa mùa hè nắng chói chang tôi nghe lại được tiếng ve sầu rôm rả. Giấc chiều chiều, mụ gà mái đẻ trứng la lối inh ỏi. Tôi ngẩn ngơ trước khu vườn trồng toàn olive lần đầu tiên thấy. Thứ trái đăng đắng bùi bùi trên bàn ăn, giờ lủng lẳng trên những thân cây rậm rạp lá nhọn như những mũi tên. Lại còn cây figue, thứ cây có trái như trái sung mà tôi rất thích. Mua ngoài chợ tại Montreal, thứ trái này mắc thấu trời, vậy mà tại vườn trong nhà trái figue  chín mõm rụng đầy sân. Tôi mặc sức hái những trái chín cây ăn ngọt lịm. Thích như vậy mà chỉ được một hai bữa, nhìn thấy trái figue  chín sẫm trên cây cũng không buồn hái. Ngán tới cổ!

Ve sầu, olive, lavande là…quốc hồn quốc túy của vùng Provence. Các thứ hàng hóa, vật dụng kỷ niệm của vùng này đều có mấy thứ trên. Nhìn vào là ra vẻ provence liền. Tôi mua một lúc tới ba cái khăn bàn ăn. Cái nào cũng dính nào olive, nào lavande nhưng không có mẫu khăn bàn nào có hình ve sầu. Tôi chẳng hiểu tại sao ve sầu lại không được leo vào bàn ăn. Nhưng các thứ khác thì ve sầu bám vào tùm lum. Ngay cả những chú ve sầu bằng sứ hay bằng kim loại đứng mình ên cũng được du khách mua ào ào.

Vùng tôi ở là vùng Aix en Provence. Nơi tôi ở là chốn quê mùa. Muốn đi chợ phải tính ngày có phiên chợ. Chợ chỉ họp mỗi tuần một ngày. Nói là một ngày chứ tới khoảng 2 giờ là đã vãn chợ. Chợ chồm hổm họp ngay trên đường phố. Mấy anh thanh niên, có lẽ là lực lượng…dân phòng, chặn hai đầu đường không cho xe cộ vào, vậy là có một cái chợ. Dân quanh vùng mang đủ thứ cây nhà lá vườn ra bán xen lẫn với những người bán hàng rong chuyên nghiệp bán những thứ…cao cấp hơn như khăn bàn, fromage, quần áo, vải vóc. Rượu vang sản xuất tại chỗ rẻ rề. Mua về uống thử thấy ngon chẳng thua kém các thứ sản xuất chuyên nghiệp trong các cửa hàng. Rau cỏ và trái cây trông còi cọt, nhỏ hơn thứ bán trong các siêu thị, đúng là thứ trồng trong vườn. Lạ một cái là thứ đào dẹp mà chúng ta thường gọi là đào donut bán rẻ rề, Nhỏ trái, trông không bắt mắt nhưng ngọt ơi là ngọt. Tôi bắt gặp trong chợ một chiếc xe bán thức ăn bày toàn những món ăn Việt Nam lúc nào cũng đông nghẹt người xếp hàng. Món chả giò, được gọi là “nem”, là món được chiếu cố nhiều hơn cả. Nem là tiếng Bắc để chỉ món mà người Nam gọi là “chả giò”. Trên toàn nước Pháp món này đều được gọi là “nem”. Chờ tới lúc vắng khách, tôi mua hàng. Tôi thử nói tiếng Việt. Ông bán hàng, với giọng nói hơi khó khăn lúc đầu, nhưng khi vui chuyện đã bắt lại được tiếng Việt khá nhuần nhuyễn, vui như bắt được của khi gặp được đồng hương ở chốn nhà quê nước Pháp này. Ông cho biết tên là Phước, sang Pháp từ lâu. Ông xoắn lấy tôi nói chuyện mặc cho đám khách hàng đứng chờ tò mò theo dõi hai tên Việt Nam nói tiếng…ngoại quốc. Khi tôi từ giã, ông bùi ngùi như không muốn chia tay, tặng tôi hai túi bánh phồng tôm mà dân Pháp gọi là…chip!

Vùng Aix en Provence cũng có downtown như ai. Đó là một vùng khá sầm uất. Sáng Chủ nhật, dân chúng kéo về vui chơi nơi đây. Cũng đủ các trò chơi cho con nít, cũng những đường phố nho nhỏ có các cửa hàng cũng nho nhỏ và đặc biệt cũng có chợ chồm hổm. Chợ cũng họp ngay trên đường phố và cũng chỉ kéo dài tới trưa là cuốn gói giải tán. Nhưng chợ chồm hổm này không có thứ cây nhà lá vườn mà toàn những gian hàng vải, quần áo, trang sức, đồ chơi…Hàng quán hai bên đường la liệt, người ăn người uống nhộn nhịp. Tôi bắt gặp một cái tên Việt Nam: Nguyen Thanh. Phía dưới là hàng chữ nhỏ: depuis 1972. Dưới nữa: cuisine Vietnammienne. Không dấu nên không biết tên chính xác. Đây là một cửa hàng khá khang trang chuyên bán đồ ăn mang về. Một thứ…cơm chỉ. Các món ăn phần lớn là món Việt, dĩ nhiên không thiếu được món “nem”. Bán hàng là một người đàn ông trung niên có nét lai và một cô đầm khá xinh xắn. Tôi hỏi anh thanh niên có nói tiếng Việt không? Anh lắc đầu xin lỗi. Anh cho biết cửa hàng này do bà ngoại anh lập, anh là người kế thừa. Thức ăn Việt thì còn nhưng tiếng Việt đã mất! Tôi lựa mua một vài món và lấy thêm gói mè xửng dessert. Anh chàng hai giòng máu tiện tay lấy một gói mứt gừng tặng anh đồng hương…phân nửa!

Từ nơi tôi trọ tới Marseille mất hơn hai tiếng lái xe. Nghe cái tên đã muốn tới. Để ăn món bouillabaisse huyền thoại phát xuất từ thành phố này. Các ông tây rất khéo vẽ vời. Họ tôn vinh món ăn đặc biệt này được nhập vào Marseille từ thời cổ Hy Lạp 600 năm trước công nguyên lận. Đây là món do nữ thần Venus gửi cho chồng là Vulcan để ông này ăn xong là lăn quay ra ngủ cho nàng dễ bề ngoại tình với chàng Mars! Tôi nghĩ họ đặt ra truyền thuyết như vậy cho thêm phần quí phái chứ thực ra đây chỉ là một món ăn rất bình dân. Ngày xưa các ngư dân vùng biển này cho tất cả các hải sản không bán được vì có nhiều xương vào một chiếc nồi rồi hâm cho nhừ ra ăn kẻo phí của. Chắc cũng như món cơm trộn cuối tuần của các bà mẹ đảm đang Việt Nam ở hải ngoại. Cuối tuần, các bà vét hết đồ ăn dư trong tủ lạnh rồi trộn vào cơm, thêm mắm muối, đảo trên chảo để có một thứ cơm hầm bà làng chẳng tuần nào giống tuần nào. Vậy mà ngon. Cũng vậy, bouillabaisse là một món quốc hồn quốc túy được nhiều người ưa chuộng. Tôi đã nhiều lần được ăn món này bên ngoài Marseille. Rất ngon. Nhưng phải ăn món này ngay tại Marseille mới hết xảy. Chẳng thế tại sao lại có câu nói: tới Marseille mà không ăn món bouillabaisse là chưa tới Marseille. Ngon thật. Ngọt lịm và có mùi vị không một nơi nào khác có. Người ta bảo  đó là vì họ dùng nước biển đặc biệt của vùng này, thứ cá nhiều xương đặc biệt địa phương, nấu trên bếp củi và các thứ gia vị như tỏi, fennel và cà chua được trồng ngay tại Marseille. Cái tên bouillabaisse được cho là bắt nguồn từ cách nấu. Đó là hai từ tiếng Pháp bouillir là nấu hầm và abaissé hạ thấp lửa, gộp lại thành. Một nồi bouillabaisse được hầm từ 24 đến 48 tiếng mới ra hết chất ngọt từ xương cá tươi đánh từ biển lên. Cá để trong tủ lạnh là vứt đi, không thể làm bouillabaisse được.

Khi món ăn đặc biệt Marseille này leo lên thành thứ…lịch sử, các nhà hàng địa phương không bỏ lỡ cơ hội vẽ rồng vẽ rắn cho thêm phần…trưởng giả. Năm 1980 các nhà hàng bán bouillabaisse họp nhau lại và ra một “tuyên ngôn bouillabaisse”. Mở đầu tuyên ngôn họ công nhận là “không thể tiêu chuẩn hóa cách nấu”. Nguyên văn : Il n’est pas possible de normaliser la cuisine”. Nhưng họ cũng đưa vào tuyên ngôn là một nồi bouillabaisse phải có ít nhất bốn thứ  cá trong các loại cá sau: rascasse, araignée, galinette, fiela chapon. Kiến thức về cá của tôi rất cà chớn. Vậy nên tôi cứ ghi nguyên văn tiếng Tây cho tiện việc sổ sách. Thực ra tôi chỉ biết rõ có mỗi thứ cá giếc. Đó là ngay từ ngày mới lún phún tí râu tôi đã đi câu loại cá này. Đối với tôi cá nào cũng là thứ bơi dưới nước cả! Gia vị của một nồi bouillabaisse gồm hành, cà chua, khoai tây, ngò tây, tỏi, dầu olive, nghệ tây và thì là tây fennel.

Chỉ có những người có bằng cấp về nấu bouillabaisse mới được chính thức sản xuất món này. Những người không có bằng, nếu nấu bouillabaisse bán, thì không được gọi sản phẩm của họ là bouillabaisse. Du khách muốn dùng món bouillabaisse bằng cấp phải đặt trước ít nhất 24 tiếng. Tôi không phải là du khách khó tính lại ít chuộng bằng cấp, nhất là bằng cấp nấu bếp, nên xà ngay vào một nhà hàng lộ thiên trên bến cảng Marseille để ăn bouillabaisse. Bếp nhà hàng chắc không phải là dân...khoa bảng nên trên thực đơn, nhà hàng chỉ dám ghi món ăn này là: marmite des pêcheurs en bouillabaisse. Âu cũng là một lối chơi chữ! Thứ bouillabaisse tôi ăn có đủ bốn loại cá, thêm tôm, hào, cua, mực cũng đủ ngon làm tôi nhớ đời. Bẻ miếng bánh mì chấm với nước sốt ngọt lịm vị hải sản tươi với các thứ lá gia vị bắt nhau chi lạ. Theo các bậc có kinh nghiệm về bouillabaisse thì thứ thức ăn này có mùi vị không thứ nào khác có là vì mùi lá thì là gọi là fennel. Nghe vậy biết vậy, ngon vì đâu tôi chẳng cần biết, cái miệng tôi mách bảo là đủ. Tôi nghĩ là thứ bouillabaisse do các đầu bếp có bằng cấp nấu cũng rứa thôi. Đó là một thứ vẽ vời cho món ăn thêm phần kỳ bí. Chỉ có một khác biệt: món bouillabaisse được chính thức ghi là bouillabaisse trên thực đơn có giá từ 50 đến 60 euro một phần ăn. Tôi chỉ phải trả phân nửa giá tiền đó cho thứ món ăn hầm bà làng gọi là marmite des pêcheurs en bouillabaisse!

Nếu cần thêm một chút chữ nghĩa cho món ăn này, tôi sẽ không ngần ngại chọn bài thơ của William Makepeace Thackeray, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Vanity Fair. Ông này là người Anh mà dân Anh và dân Pháp ít có cảm tình với nhau. Vậy mà ông cũng phải xưng tụng món tây chính cống bouillabaisse. Bài thơ có tên “The Ballad of Bouillabaisse” (Bài ngợi ca Bouillabaisse) gồm 11 đoạn, tôi chỉ xin trích ra một đoạn:

This Bouillabaisse a noble dish is -
A sort of soup, or broth, or brew,
Or hotchpotch of all sorts of fishes,
That Greenwich never could outdo;
Green herbs, red peppers, mussels, saffern,
Soles, onions, garlic, roach, and dace;
All these you eat at Terrés tavern,
In that one dish of Bouillabaisse.

Định nhờ ông bạn Luân Hoán dịch ra thơ cho le lói nhưng mình ăn mà bắt bạn dịch coi bộ không fair. Vậy xin dịch qua quít cho vui: Bouillabaisse, món ăn quý phái, là một loại súp, hay canh, hay hầm. Hay một món hổ lốn của mọi loại cá mà Greenwich cũng chịu lép vế. Rau xanh, ớt đỏ, hào, cá thu, hành, tỏi, cá chép, cá lăng. Bạn ăn tất cả tại một quán ăn, chỉ trong một đĩa!

Nhiều người khuyên khách du lịch không nên tới Marseille vì tình trạng an ninh không bảo đảm. Thành phố quả có lộn xộn khi tôi tới. Những đường phố chật hẹp, dơ dáy, có rất nhiều ăn mày là dân nhập cư từ các nước Phi châu. Những thanh niên tụ họp trên từng góc phố, nghênh ngang, ồn ào đầy đe dọa. Nhưng nếu bạn hỏi tôi có muốn tới Marseille lần nữa không, tôi sẽ không ngần ngại gật đầu. Chỉ để được ngồi trước món bouillabaisse trong một nhà hàng lộ thiên no đầy gió biển trên bến cảng Marseille!

Trong một lúc ngồi ngắm ông đi qua bà đi lại tại một công viên nhỏ ở Marseille, tôi bỗng suy nghĩ, sao bài quốc ca Pháp có tên là “La Marseillaise” vậy kìa?Bộ thành phố lộn xộn này là tượng trưng cho nước Pháp sao? Tôi không nghĩ vậy. Cái tính tếu của tôi làm tôi nhớ tới lời Việt của bài quốc ca mà không hiểu từ hồi nào, khi tôi còn rất nhỏ, lúc nước ta vẫn còn bị Pháp đô hộ, đã được người lớn dậy cho. Tới nay tôi vẫn còn nhớ được toàn bài. “Thầy đồ ngày xưa quen thói nuôi móng tay dài, quần trễ tai hồng, đỏ đen mực son...” Lời chế giễu vẻ nhếch nhác của một ông thầy đồ hết thời cắm vào nhạc của bài quốc ca của...mẫu quốc phải chăng là một lối phản kháng nhẹ nhàng của con dân đất Việt? Tìm hiểu thêm tôi mới biết chút lịch sử bài ca này. Nó...Marseille thiệt! Ngày 25 tháng 4 năm 1792, Thị Trưởng thành phố Strasbourg gợi ý cho một người khách của ông là Rouget de Lisle soạn một bản nhạc “có thể tập họp tất cả các chiến binh của chúng ta bảo vệ tổ quốc đang bị đe dọa”. Khi đó Pháp đang bị quân Phổ và Áo đe dọa thôn tính. Chỉ trong một đêm, Rouget de Lisle  viết xong bài hát đặt tên là “Chant de guerre pour l’Armée du Rhin”. Bài hát sau đó thành giai điệu tập họp của cuộc cách mạng Pháp và được đổi tên thành “La Marseillaise” sau khi được kháng chiến quân hát lần đầu tiên trên đường phố Marseille vào cuối tháng 5 năm đó. Chính những kháng chiến quân này đã tiến vào thủ đô Paris vào ngày 30 tháng 7 năm 1792 sau khi một kháng chiến quân trẻ tuổi tên Francois Mireur hát bản nhạc này trong một cuộc mít tinh tại Marseille. Anh kháng chiến quân này vừa tốt nghiệp y khoa và sau này trở thành một tướng lãnh dưới quyền Napoléon Bonaparte và tử trận tại Ai Cập lúc mới tròn 28 tuổi. Nghị Viện Pháp đã chấp thuận bản nhạc thành quốc ca Pháp bằng một nghị định được thông qua vào ngày 14 tháng 7 năm 1795. Nhưng sau đó, dưới triều Napoléon I bản nhạc bị...thất sủng. Mãi tới năm 1879, Quốc Hội Pháp mới chấp thuận lại bài quốc ca này cho tới ngày nay.

3.

Vùng Aix en Provence, nơi tôi đang tá túc có nhiều khu dân cư nhỏ. Một trong những khu này là St. Rémy de Provence. Dân số nơi đây chỉ có chưa tới 10 ngàn người nhưng là một nơi tấp nập du khách. Theo cẩm nang du lịch thì đây là một nơi phải tới. Tôi ở cách nơi đây chỉ hơn một giờ lái xe nên nhất định phải tới. Vì ông Van Gogh. Ông họa sĩ nổi tiếng thế giới đã vẽ trên một trăm bức phong cảnh đồng quê trong vùng St Rémy này. Một trong những bức nổi tiếng nhất của Van Gogh là bức Vase avec Iris đã được vẽ tại đây. Những phong cảnh mà Van Gogh đã đi qua, đã ngồi vẽ, hầu như còn nguyên vẹn: những cánh đồng hoa dại, cây olive, ven núi Alpin. Ngay gian phòng Van Gogh đã trú ngụ trong hơn một năm, từ tháng 5 năm 1889 đến tháng 6 năm 1890, cũng vẫn còn nguyên. Tôi hình như có duyên với ông họa sĩ này. Trong một lần đi dạo trên đại lộ Champs Élysées nổi tiếng tại Paris, tôi đã đi lần vào trong những hành lang ven đại lộ, kiểu như hành lang Eden trên đường Tự Do của Sài Gòn xưa. Lần này có nhiều thời gian nhởn nhơ ở Paris, tôi mới có dịp thực hiện được cái thú ngồi ăn trong những lều vải trên vỉa hè đại lộ ngắm ông đi qua bà đi lại, và cái thú la cà vào những hành lang của đại lộ này. La cà dí mũi vào các tủ kính thôi, chẳng nên bước qua ngưỡng cửa của những gian hàng kẻo bị chặt đứt cổ! Trong một hành lang sang trọng đó, tôi bắt gặp ông Van Gogh. Đó là một bức tượng cách điệu rất lạ mắt, được đúc bằng đồng, những thanh đồng mỏng tạo thành dáng đi của nhà họa sĩ. Gọi là bức tượng thì hơi khiên cưỡng vì tượng cho chúng ta hình ảnh một khối liền chắc. Nghệ thuật nhất là bức tượng được vạt một khoảng trống từ đầu gối lên tới bụng mang lại cảm giác mất đó nhưng vẫn còn đó.


Tượng Van Gogh trong khu cửa hàng ở Champs Élysées

Trên đường Hoche của St Rémy de Provence là nơi sinh của Nostradamus. Ông sanh năm 1503, mất năm 1566. Tên đầy đủ là Michel de Nostredame. Chắc ai cũng biết ông này là nhà chiêm tinh học đã để lại nhiều tiên đoán chính xác. Và tôi nghĩ chúng ta chỉ biết ông này với tư cách là chiêm tinh gia. Nhưng thực sự ông là một trí thức khoa bảng đàng hoàng. Ông là bác sĩ, nhà toán học, thiên văn học và giai đoạn cuối đời ông còn là một nhà văn nữa! Có thể coi ông này là một thứ trạng như Trạng Trình của chúng ta. Theo một bài viết của Rich Deem thì Nostradamus, tuy sống trong thế kỷ thứ 16 nhưng đã đoán trúng các sự kiện sau của thế kỷ 19 và 20: cuộc Cách Mạng Pháp, Napoleon, Adolph Hitler, bom nguyên tử, vụ 9/11, các vụ ám sát hai anh em Tổng Thống John Kennedy và Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy và nhiều vụ khác. Tôi vốn không mặn mà với các thầy lốc cốc tử nhưng nhân đến sinh quán của Nostradamus thì tán chơi vậy thôi. Có một điều vui vui muốn ghi lại đây là Nostradamus cũng đoán bằng thơ như Trạng Trình của chúng ta. Thử trích một đoạn thơ Nostradamus tiên đoán cho năm nay, 2012:

The year 1999, seventh month,
From the sky will come a great King of Terror:
To bring back to life the great King of the Mongols,
Before and after Mars to reign by good luck.

Chữ nghĩa cũng đêm ba mươi như cụ Trạng nước ta để mặc cho con cháu tha hồ đoán già đoán non. Ông Rick Deem đoán như thế này: một sao chổi lớn hay một hành tinh di động sẽ chạm vào vùng Địa Trung Hải vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 gây nên thảm họa lớn lao cho toàn thế giới. Ông Rick là một loại thầy bàn. Đúng hay sai tới cuối năm nay sẽ rõ. Nhưng câu thơ trên nói rõ thời gian là tháng 7 năm 1999 thì qua đứt đi rồi! Ông thầy bàn Rick cãi: sau khi Nostradamus qua đời vào năm 1566 thì vào năm 1582, người ta cho đổi lịch, từ lịch Julian qua lịch Gregory, nên ngày tháng chênh lệch như vậy! Thôi thỉ ráng chờ vậy. Nhưng tôi thấy ông Nostradamus đã không tiên đoán được việc đổi lịch chỉ xảy ra sau khi ông mất có 16 năm! Kể ra ông cũng khá sơ sót.

Sục sạo ở Saint Rémy tôi lại vớ được một cái tên Việt Nam. Tôi tình cờ lướt ngang qua một tiệm kim hoàn khá lớn có hai dãy tủ kính trưng bày toàn những thứ tiền ơi là tiền thì mắt tôi đập vào một góc tủ và thấy hai chữ: Dinh Van. Tôi ghi nguyên cái tên không có dấu. Đó là một lô đồ trang sức do ông (hay bà?) này vẽ kiểu. Đếm sơ qua thì bộ này cũng có tới khoảng bốn chục món. Chẳng biết người có cái tên này là ai nhưng thấy cái tên Việt ở vùng hẻo lánh cũng vui, bèn chụp tấm hình. Cũng chỉ cho vui!

Ngoài ve sầu, olive, lavande và hướng dương, miền Provence còn có các lâu đài. Cũng lềnh khênh khắp chốn. Ngay cạnh Saint Rémy là một lâu đài khá nổi tiếng tên Château des Baux. Du khách tới coi tấp nập, vé vào cửa là 8 euro. Tôi cũng vui chân tới coi. Tưởng vào một chốn quyền quý hoá ra đây là một phế tích! Lâu đài được xây từ thế kỷ thứ 10 nằm trong vùng Les Baux de Provence. Chẳng biết ngày xưa thịnh vượng ra sao, ngày nay chỉ còn là những phế tích hoang tàn. Tôi theo chân du khách len lỏi vào những mảnh tường, những bậc thang, những căn phòng chẳng còn hình dạng chi. Tại mỗi nơi, người ta trưng một bức vẽ tả lại khung cảnh ngày xưa của những chốn hoang phế này. Nhìn vào bản vẽ, so với nét rêu phong trước mắt mới thấy cái sắc sắc không không của cuộc sống. Ngày xưa chắc nơi đây dập dìu tài tử giai nhân, giờ những bậc quyền quý sang trọng đang nằm ở đâu, xương cốt còn lành lặn chăng? Chợt nhớ tới thơ của Bà Huyện Thanh Quan: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. Tôi bắt gặp một cái dàn gỗ được dựng ngoài trời. Tôi nghĩ đây là thứ làm lại chứ gỗ chi mà chịu đựng sương nắng được hơn chục thế kỷ. Dàn gồm hai mảnh ván dài có khoét ba lỗ được dựng trên hai chân gỗ chắc chắn. Một lỗ lớn ở giữa và hai lỗ nhỏ hai bên. Đây là một dụng cụ nhục hình giam người ngoài trời. Lỗ lớn vừa khít cho một chiếc cổ, hai lỗ nhỏ cho hai cổ tay. Người bị phạt đút cổ và tay vào và được khoá chặt khi hai tấm gỗ úp vào nhau. Du khách, cả ngưòi lớn lẫn trẻ em, thích thú tra cổ và tay vào để cười chơi. Ngày xưa kẻ bị hình phạt này chắc chẳng cười được. Họ là quân địch đột nhập vào lâu đài hay là người giúp việc trong lâu đài bị trừng phạt vì tội chi đó? Cả người ra lệnh phạt lẫn người bị phạt nay nằm nơi nao? Nghĩa lý chi đâu những tranh chấp ngày còn sống!

Lái xe trên những con đường rợp bóng cây, thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp một tấm bảng chỉ hướng tới một lâu đài. Lâu đài đâu mà lắm thế! Liệu có cái nào dành cho mình không? Có! Tôi đã thực sự ở trong một lâu đài tên Château de Cazenac. Được xây cất từ thế kỷ 17, lâu đài này tọa lạc trên thửa đất rộng tới 25 mẫu tây. Vào một buổi chiều mát mẻ, tôi đã thử đi bộ quanh vòng rào lâu đài nhưng đành bỏ cuộc sau khi lưng áo ướt đẫm và đôi chân mỏi nhừ! Đã bốn thế kỷ hiện diện, lâu đài chắc đã phải qua nhiều đợt trùng tu, nếu không chắc nay đã thành phế tích. Sửa chữa có lẽ phần lớn nơi các toilet. Toàn những thứ hạng nhất trắng tinh. Mỗi nơi mỗi kiểu. Còn phòng ốc và các vật dụng hầu như còn giữ nguyên từ xưa. Sàn nhà vẫn là những đá cẩm thạch hai màu trắng đen bóng loáng với thời gian, cầu thang bằng đá tảng, bàn ghế xưa rích xưa rang, vật dụng trang hoàng từ lâu đời. Từ phòng khách, phòng chơi tới các phòng ngủ mà tôi chẳng coi hết, toàn những thứ cổ kính.


Cổng vào Château de Cazénac

Điều đầu tiên tôi nhận thấy khi nhận phòng là tiếng ken két của cửa. Cửa ra vào, cửa sổ, cái nào cũng biết rên rỉ. Có cái còn ương ngạnh không khép kín được. Không biết những công tôn vương tử nào đã trú ngụ nơi đây trong hơn ba thế kỷ qua, có vị nào nhớ nhà không? Tôi vốn không sợ ma, không tin có ma, vậy mà đôi khi vẫn rờn rợn khi bước vào những cầu thang tối tăm, những căn phòng khuất nẻo, những hành lang mờ ảo. Tường là những phiến đá mà tôi đã tò mò ướm thử và thấy có lẽ phải dày tới nửa thước. Phòng bếp và phòng ăn hầu như còn nguyên vẹn dấu xưa. Cũng tối tăm âm u không kém.


Chateau de Cazenac

Château de Cazenac tọa lạc trên đồi cao trong khu Le Coux et Bigaroque thuộc vùng Périgord. Không biết cái tên Périgord có gợi nhớ được nơi bạn đọc điều chi không? Đó là...quê hương của món foie gras nổi tiếng của Pháp. Foie gras ăn với bánh mì Paris thì không chê vào đâu được. Tôi nhấn mạnh bánh mì Paris! Cô em tôi, dân Paris đã nửa thế kỷ, nhất định cho là bánh mì Paris ngon nhất, bánh mì dưới Provence thua xa. Cái miệng tôi là cái miệng...Canada nên không bén nhậy như vậy được. Bánh mì Pháp là tôi thấy ngon rồi. Ít nhất cũng ngon hơn bánh mì Canada. Mà chẳng cứ bánh mì, trái cây, yaourt, bánh kẹo Pháp thứ gì sao cũng ngon thế! Bên Canada, gần Montreal có vùng Lac Brome cũng làm foie gras nhưng sao bì được với thứ chính tông của tây. Périgord lại là thánh địa của foie gras nên khi tới đây tôi đã vào đúng hang ổ. Ngay từ khi ghé vào một quán ăn bên đường, tôi đã thấy có món vịt hầm. Tôi là loại hảo...vịt nên order ngay một thố. Ngon tuyệt tuy thường ngày cái miệng tôi chỉ thích món bún măng vịt thôi. Vậy rồi trong thời gian ở vùng này nhà hàng nào cũng thấy món vịt, giá khá rẻ, tôi cứ hân hoan...bơi! Tới Périgord mới biết đây là đất vịt. Phố phường rặt một thứ cửa hàng bán foie gras. Foie gras được làm bằng gan vịt hoặc ngỗng. Vịt có bộ gan nhỏ xíu nên chẳng biết phải bao nhiêu gan mới làm được một hộp foie gras. Vậy là con người giở trò. Họ tạo nên những con vịt có bộ gan lớn hết cỡ. Tôi đã được coi những video chiếu công đoạn...to gan này. Họ nhồi nhét cho vịt ăn bằng những chiếc ống nhét thức ăn cho diều của vịt căng phồng lên. Dĩ nhiên trong thức ăn có những chất...bổ gan. Đúng ra là những chất tạo mỡ cho gan. Thành ra ăn foie gras bảo đảm sẽ giầu cholesterol! Thấy những chú vịt bị...ăn mới thấy cái ác của con người. Vậy nên giới bảo vệ súc vật mới phản đối. Họ đã thành công ở nhiều nơi. Ngay tại Âu châu, 35 nước đã cấm chế biến foie gras nhưng vẫn được bán và tiêu thụ. Chỉ còn năm nước vẫn sản xuất thứ món ăn ngon nhưng ác này. Đó là: Bỉ, Bảo Gia Lợi, Tây Ban Nha, Hung và, dĩ nhiên, Pháp. Luật lệ của Pháp nhấn mạnh: “Foie gras được bảo vệ như một di sản văn hóa và ẩm thực của Pháp”. Ở Mỹ thì lệnh cấm bán foie gras đã được thông qua tại thành phố Chicago và mới đây, bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 năm 2012, tại tiểu bang California. Vậy là các bạn tôi nơi thủ đô tị nạn tạm treo miệng trước món ăn...di sản này. Xin chia buồn!

Ngay tại chính giữa Périgord có bức tượng ba chú vịt bằng đồng đứng ngơ ngác nhìn người qua lại. Đây là tác phẩm của điêu khắc gia Francois Xavier Lalanne. Thấy ba chú vịt dễ thương này trong tôi dâng lên niềm ân hận: sao ta cứ thịt vịt mà thích! Lỗi không phải tại tôi mà tại...vịt. Ai bảo chúng bay ngon thịt!

Tôi chắc thuộc loại được thần khẩu để ý tới thì phải. Khi tới Limoges giữa buổi trưa một ngày tháng 8, các tiệm ăn cái mở cái đóng. Đóng nhiều hơn mở. Lòng dặn lòng là thôi kén cá chọn canh, cứ có cái restaurant nào hé cửa là vào. Thần khẩu đưa đường chỉ lối làm sao mà lại đưa ngay vào một tiệm có tên Les Saveurs d’Asie trên đường Élie Berthet. Nhìn bảng hiệu lại mừng rỡ hơn trước hàng chữ khẳng định cuisine Vietnamienne. Vậy là đúng phóc phe ta. Dân ta hay thật, chỗ nào cũng có mặt. Tiệm ăn buffet có cô chủ trẻ vui tính. Tiếp đãi đồng hương rất thân tình. Thực khách ngồi la liệt trong tiệm có tới 150 chỗ, vậy mà cứ bám riết lấy đồng hương để nói tiếng nước ta. Thức ăn toàn các món Việt Nam rặt. Order bốn ly cà phê sữa đá, cô chủ làm đúng thứ cà phê Sài Gòn, ngon hết biết. Ngon hơn là khi tính tiền lại tặng luôn bốn ly cà phê này. Vui thiệt vui. Chia tay nhau cô chủ còn cho biết là ngày hôm sau sẽ lên Paris, chắc gặp lại. Làm như Paris chỉ như cái lỗ mũi. Vậy mà gặp thiệt! Gặp ngay trước cửa siêu thị Tang Frère ở quận 13. Mừng như gặp lại cố nhân, cô chủ mời lên Limoges ăn nữa. Lần này không tính tiền. Ăn một bữa cơm phải lội ba trăm cây số, đành phụ lòng cô. Mải nói chuyện cô chủ nhà hàng ở Limoges mà quên phứt Limoges. Đây là thành phố nổi danh về đồ sứ. Điều này chắc có nhiều người biết nhưng Limoges là nơi chuyên sản xuất ra các thùng bằng gỗ sồi để làm rượu cognac thì chắc ít người biết. Tôi nghĩ ngay cả các bợm cognac cũng ít người biết! Cứ tự hỏi lòng mình rồi suy ra khắc biết lòng người!

Trên đường từ Limoges về lại Paris, khi còn cách thủ đô đúng 122 cây số, thấy tấm bảng ghi Orléans, nhớ tới ông bạn vong niên Thái Tuấn. Thư nào cũng dặn đi dặn lại nếu có dịp tới Paris làm ơn bắt xe xuống Orléans chơi. Dặn mãi mà cũng chẳng thấy bóng dáng bạn, ông gửi một bức hình chụp ông đang ngồi một mình trước khay trà trên bàn. Ông đặt tên cho bức hình: Đợi Bạn! Nay có dịp ghé ngang Orléans thì nhà họa sĩ già đã ra người thiên cổ sau khi về sống tại Việt Nam. Chắc người vẫn...đợi bạn.

Rồi tôi cũng dừng bước chân giang hồ trở lại Paris. Paris ngày nay thay đổi rõ rệt so với hai kỳ tôi tới thành phố này trước đây. Tôi có thể an tâm nhìn trời Paris mà không sợ bước chân sa lầy vào những mớ sản phẩm của các anh chị cẩu. Thành phố sạch sẽ hẳn ra. Trước đây mỗi lần tới Paris là ôm theo một mối lo. Lỡ giữa đường mà...mót là cả một vấn đề. Toilet là một thứ hiếm. Nay coi bộ khá hơn. Cứ yên tâm vãn cảnh, hầu như chỗ nào cũng có những nơi giải quyết. Thường thì phải bỏ tiền. Ba chục xu, năm chục xu, giá cả tùy tiện. Có một nơi trong vườn Luxembourg lại phân biệt rất rạch ròi: quý bà bốn chịch xu, quý ông có hai loại, nếu vào phòng kín cũng bốn chục xu nhưng chỉ dùng bồn tiểu thì nửa giá, hai chịch xu thôi! Vậy nên đi giữa lòng Paris trong túi nên phòng sẵn tiền xu. Nơi có người ngồi thu tiền thì khỏe ru, nhưng những nơi phải bỏ tiền vào máy thì...khốn. Bụng kéo còi hụ mà không có xu bỏ vào cái lỗ thì cận kề đó mà sao xa cách! Dù sao cũng lựa chốn tốn xu mà vào vì có người chăm sóc vẫn hơn. Gặp những chỗ ra vô thong thả thì đỡ cho cái túi nhưng khổ cái lỗ mũi. Kinh hãi! Tôi đã có kinh nghiệm nơi tháp Eiffel khi lạc vào chốn không tốn tiền.

Paris ngày nay có rất nhiều shopping center. Cái nào cái nấy to đùng, mới mẻ, đi hoài không hết. Trong các trung tâm mua bán này đều có toilet. Nơi phải bỏ tiền nơi không. Thường thì ra vô thong thả nhưng vẫn có người săn sóc nên sạch bóng.

Đó là tiến bộ về...mỹ thuật. Về kỹ thuật Paris cũng làm tôi ngạc nhiên. Những cột sạc điện cho xe hơi nằm cả gần chục cái bên nhau tại một số góc phố. Tôi đã nhìn thấy hai nơi...hiện đại này. Siêu thị Leclerc làm tôi lác mắt. Khách hàng có thẻ của siêu thị có thể cà để lấy một máy scan đút vào chiếc lỗ trên chiếc xe đi chợ. Mua món nào, scan ngay món nấy, giá cả hiện ra, không lẫn vào đâu được. Máy sẽ cộng lại thành tổng số tiền đã mua. Cứ nhìn máy mà liệu cái túi tiền. Mua xong, ra quầy tính tiền, chỉ việc nộp lại chiếc máy và trả tiền, chẳng phải phiền cô caissière tính toán lôi thôi. Nhanh và gọn bâng! Vào nhà hàng McDonald’s có thể order và trả tiền bằng máy, xong đưa bill cho nhân viên để lấy thức ăn. Hết rồng rắn lôi thôi!

Em Paris bây chừ văn minh vậy đó. Chẳng gì em cũng đã từng là kinh thành ánh sáng, cũng đã là...mặt trăng của thời trẻ chúng tôi. Đã tới với em, vào trong em, sống với em, khó mà chia tay nhau. Ngậm ngùi là cái chắc. Dễ dàng chi được khi chia tay một người đẹp. Thầy tôi, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, trong một dịp tới Paris vào năm 1959, đã chết trong lòng khi chia tay người em kiêu sa.

Thạch dầu ngơ ngẩn bóng mây trôi
Thiết- tháp hờn trăng lạnh lẽo ngồi.
Anh ạ, Paris toàn sắt đá
Lòng đau, Sắt nọ Đá này thôi
Anh hiểu! Vàng thu sẽ dậy men
Lá rơi vàng kín mặt sông Seine.
Hồn anh sẽ đọng dài trên lá
Để giúp em màu đan áo “len”.

Thầy đã xót xa khi rời Paris, trò cũng không đành lòng quay đi. Hai thế hệ, nửa thế kỷ ngăn cách, mối buồn như nhau. Mai tôi sẽ lại xa Paris.

Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố
Con đường dài thẳng mãi có bao nhiêu.

Paris buồn phải xa nhà thơ Nguyên Sa, người đã mang Paris về cho chúng tôi vọng tưởng. Nguyên Sa đã ăn ở với Paris, tôi chỉ là một lãng tử. Đến rồi đi. Paris nhớ gì tôi! Vì Paris là một em gái lang chạ. Nầm nập du khách tới rồi đi. Em là của mọi người. Riêng chi tôi!

08/2012