Bịt
Chai
Chí
Chỉnh
Chôm
Đốt
Generic
Hơi
Khóc
Lạ
Lộ
Masterchef
Mùi
Nạt
Nhất
Nude
Pháp
Phô
Sợ
Tài
Táng
Tật
Tên
Thần
Thật
Thiếu
Thưởng
Tua
Uống
Về

TÁNG

Chết là hết! Cũng như chó chết hết chuyện. Người ta thường  nói thế. Mấy ông bạn tôi gân cổ lên cãi. Hết thế chó nào được! Chó chết còn nhiều chuyện thơm phức, người chết còn nhiều chuyện rềnh rang, hết chi được.
Chuyện đi một đường thẳng về chốn…hoang dã là chuyện của lứa tuổi chúng tôi. Ông nào ông nấy bỏ rẻ cũng ở tuổi “xưa nay hiếm “cả rồi. Các cụ ngày xưa đoán chuyện ngày nay sai bét. Xưa thì hiếm chứ nay chuyện “cổ lai hi” là chuyện lềnh khênh rờ vào chỗ nào cũng thấy.Chung quanh tôi toàn những ông bà thất thập có dư cả. Lỡ có một ông bà nào chán sống ở cái tuổi bảy chịch này thì còn được coi là chết…trẻ. Chuyện trăm tuổi xưa kia là cái mộng ít khi thành thì ngày nay cũng là chuyện thường ngày ở huyện. Các cụ vượt qua biên giới một thế kỷ như không! Chết phải cỡ chín chịch một trăm hoặc hơn một trăm mới có chính nghĩa. Khả năng sống thì như vậy nhưng cứ tới tuổi “xưa nay hiếm” là đầu óc phải vương vấn tới chuyện một mai khi chúng ta hui nhị tì. Hui nhị tì tiếng…nước lạ có nghĩa là đi một đường thẳng tới nghĩa địa. Chết là phải ra nghĩa địa, ngày xưa là như vậy. Ngày nay chuyện hậu sự có vạn nẻo. Nhưng nẻo cổ điển nhất vẫn là hui nhị tì.

Nằm nghiêm trang, chân cẳng bất khiển dụng, chuyện đi đứng phải nhờ thân nhân còn sống. Trong số bạn tôi có những ông rất nghiêm, sống đã nghiêm, sắp hết sống vẫn còn nghiêm. Ông dặn con cháu từng ly từng tí về lễ tiễn đưa ông ra nghĩa địa. Phải làm sao cho ra thể thống nhà ta. Nhưng cũng có ông căn dặn con cháu cứ xuề xòa cho đủ lễ là được. Cứ như cụ Nguyển Khuyến ngày xưa. Tuy đời cụ ba lần thi đều đỗ thủ khoa, được gọi là “Tam Nguyên Yên Đổ”, làm lớn trong triều đình. Danh giá như vậy mà cụ dặn con cháu chỉ dùng đồ khâm liệm qua quít “kín chân tay đầu gói thời thôi”, không nhận phúng điếu, không thiệp mời, trướng đối không dùng gấm vóc.

Cờ biển của vua ban ngày trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một ít rượu hoa
Để vào mấy chữ trong bia
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.

Thời xưa táng chỉ có một kiểu. Khiêng ông bà ra đồng, vùi xuống ba tấc đất. Thế là xong một đời người. Sống có nhà, chết có mồ. Thân xác đã lìa bỏ thế gian nhưng vẫn có một địa chỉ. Để cho người thân tới thăm. Ông chú tôi cuối tuần nào cũng ra mộ vợ, ngồi tỉ tê như khi vợ còn sống. Thảng hoặc có khi bạn bè, nhân tiễn người mà nhớ tới ta, tới chuyện trò dăm ba câu chăng. Trong đám táng nhạc sĩ Nhật Ngân vào mùng 6 Tết năm nay, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, khi đi qua mộ của nhà báo Đỗ Ngọc Yến, đã dừng lại bên mộ người bạn xưa, xin tờ giấy của bạn bè, viết vội một câu thơ: đã thấy ta gần với cái xa. Đây là một câu trong một bài thơ dài của họ Nguyễn. Nói về chuyện một mai khi ta xa người xa đời.

Đã thấy quanh ta đời quạnh quẽ
Những tiếng xôn xao im dần đi
Đời một phía ta trôi về một phía
Có phải ta mù dở hay sương che
Những bóng hình xưa
Ta cũng không mong quay lại nữa
Trăng thoắt rơi ngang trên đường đi
Ta bỗng nghe ra bằng thịt da
Đã thấy ta gần với cái xa
Ô hay đất đá nào rơi lở
Hay tự lòng ta lấp lối về.

Nấm mồ là nhà của người đã đi xa. Có khi giản dị, có khi cầu kỳ. Giầu nghèo còn bám theo con người tới khi đã thành thây ma. Những năm gần đây, với tiền sẵn có, các đại gia hay Việt kiều đua nhau xây những ngôi mộ khủng. Ký giả Trần Tiến Dũng của báo Người Việt đã tới một thành phố mà ông gọi là thành phố lăng. Thành phố của người chết thuộc làng An Bằng, xã Vĩnh An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên. Chúng ta theo chân ông. “Chúng tôi thật sự choáng ngợp trước một khu lăng mộ. Vội vã dừng xe lại, chộp ngay lấy một anh thợ xây mộ đang đi. Chỉ vào ngôi mộ phía bên tay phải chúng tôi hỏi có phải đây là ngôi mộ lớn nhất không. Anh thợ trẻ nói, trước đây thì đúng nhưng khi cái kia (anh chỉ về ngôi mộ đang xây phía bên tay phải) mà xây xong thì chỉ hàng thứ hai thôi, mà cũng chưa chắc vì còn nhiều ngôi mộ đang xây khác nữa. Cái ngôi mộ chúng tôi ngỡ lớn nhất, theo anh thợ trẻ, là của một ông trưởng tộc họ Hoàng. Mộ lớn như vậy cũng chỉ “năm, sáu tỉ bạc thôi” vì không có cẩn chén, nếu có cẩn miểng chén mà dùng đồ sứ mới của Trung Quốc thì có khi giá lên tới chín, mười tỉ bạc (khoảng trên 400,000 USD). Theo một người dân sở tại, đất xây lăng ở đây có hai khu, một là khu nghĩa địa cũ của làng, một là đất tư nhân. Anh thợ xây này nói: “Nhưng dù đất của ai cũng chỉ thấy tội nghiệp những ngôi mộ nhà nghèo, con cháu phải cắn răng nhận tiền ‘đền bù’ để dời thân nhân mình đi cho có chỗ họ tranh nhau xây lăng.” Chúng tôi đi bộ một vòng và cảm nhận về một thành phố người chết kỳ dị, nơi mà mỗi căn nhà người chết “nghèo” nhất cũng có giá không dưới vài chục ngàn đôla, nơi có vô số long-lân-qui-phụng, có vô số ảnh thờ, tượng thánh, nơi mà cảnh giới cõi trên hiện ra màu mè rực rỡ qua từng màu miểng chén, nơi mà công đức danh phận tại thế được tô vẽ trên bia mộ bằng đủ mọi kiểu chữ. Nhưng nơi đây cũng là chỗ thường ngày chẳng mấy khi có bóng người, chỉ thường thấy gia súc và côn trùng, đến cỏ cây cũng trơ trụi vì bị biệt thự người chết chèn lấn”.

Thế giới người đã khuất cũng y chang như thế giới người sống. Anh nhà nghèo cũng phải cuốn…mộ đi để nhường đất cho mộ anh nhà giầu bành trướng. Nhưng mộ lớn là để mát mặt người sống chứ người chết nằm tít ở dưới có thấy chi đâu. Lớn mộ nhưng lòng tưởng nhớ tới người thân đã khuất không được lớn như vậy. Thua xa ngôi mộ của bà thím tôi được ông chồng tuần nào cũng ghé thăm chuyện trò.

Táng bằng mộ là kiểu cổ điển nhất. Dân ta thường xây mộ nổi. Nhìn vào nghĩa trang thấy nhấp nhô gò đống. Tại Bắc Mỹ chúng ta đang sống, người ta xây mộ chìm. Chỉ có một tấm bảng đá nhỏ nằm sát vào cỏ đánh dấu nơi an nghỉ của người thân. Nghĩa trang như một công viên, thăm mộ như đi hóng mát. Dân ta không thích kiểu mồ mả này. Nhưng nhập gia tùy tục, chúng ta có làm chi khác được. Môi trường cho người sống là điều ngày nay mọi người chú ý tới.

Để bảo vệ môi trường, tại nghĩa trang gần Darlington, ngoại ô thị trấn Camperdown, tiểu bang Victoria bên Úc còn có kiểu chôn đứng. Thay vì nằm thoải mái, người chết phải đứng. Chắc là mỏi chân! Đây là sáng kiến của một cựu chiến binh Úc từng tham chiến tại Việt Nam, ông Allen Heywood. Ông bị bệnh ung thư, biết không qua khỏi được nên đã căn dặn trước để gia đình thực hiện việc chôn cất theo ý ông. Không phải ông muốn chơi điệu khi muốn được chôn không giống ai mà ông nghĩ tới vấn đề giữ sạch môi trường cho những thế hệ sau. Thi hài ông được chôn trực tiếp trong đất, không có quan tài, vải liệm là loại dễ phân hủy và có thể trở thành dưỡng chất cho cây cỏ. Mộ không có bia, không tổ chức đám tang. Ông đã nói với nhật báo Herald Sun trước khi nhắm mắt lìa đời: “Thật là điều hay nếu mình là người đầu tiên làm được việc gì đó. Mọi người ai cũng muốn có một chỗ đứng nho nhỏ trong lịch sử. Những năm qua tôi đã dự nhiều đám tang và tôi chưa bao giờ cảm nhận được chúng”. Chôn cất giản dị như vậy nên gia đình ông chỉ tốn có 2750 đô, chỉ bằng một nửa chi phí thông thường. Tiền bạc không phải là vấn đề nhưng theo ông Allan, vấn đề chính là những tang lễ rềnh rang chỉ dành cho người sống chứ không dành cho người chết. Thiếu gì người hầu như bỏ đói cha mẹ nhưng khi họ chết thì làm đám tang tốn phí, ăn uống ê hề, chỉ cốt để khoe của. Ông Allen này, khi sống tại Việt Nam, chẳng biết có tìm hiểu văn hóa của chúng ta không mà…Việt Nam dữ. Khi sống thì chẳng cho ăn / Tới khi thác xuống làm văn tế ruồi!

Chôn dưới đất, xưa rồi, ngày nay bên đây còn kiểu chôn trong những hộp chồng lên nhau. Không tốn đất. Hoặc đông địa thì có thể ướp xác trong những hộc lạnh. Thỉnh thoảng có thể mở ra nhìn lại người thân.

Thịnh hành hơn ở cả bên ta lẫn bên tây ngày nay là thiêu xác. Nhiều ông bà giẫy nẩy lắc đầu. Chết vậy nóng quá! Nhưng thiêu có nhiều cái lợi trước mắt. Lợi cho môi trường là một. Lợi cho việc giữ đất để canh tác là hai. Lợi cho sự lưu giữ là ba. Cái lợi này coi bộ rõ nét nhất. Mộ mà như cái laptop, muốn xách đi đâu cũng được. Thường thì mang ra gửi ở chùa, ở nhà thờ, để đêm ngày được nghe kinh kệ. Hoặc cho người chết lên máy bay về Việt Nam cho gần với người thân, tha hồ nghe tiếng Việt. Cô em họ tôi đã làm…cách mạng, mang cái bình tro của bố về nhà, đặt trên bàn thờ, có chuyện chi lại ra nói chuyện với bố, cứ như ngày bố còn sống. Nhiều người không muốn làm như vậy. Sợ! Ai lại mang…ma về nhà.

Nhìn quanh tôi thấy ngày nay hình như hỏa táng phổ biến hơn cả. Với điều kiện người sắp chết phải diet! Đây là chuyện nghiêm trang. Tại thành phố Graz ở miền nam nước Áo mới xảy ra vụ cháy lò thiêu xác. Xác đang được thiêu là của một bà cân nặng 200 kí. Khối thịt ít mỡ nhiều này khiến lò thiêu bị nóng quá mức và phát cháy. Khi lính cứu hỏa tới thì nhiệt độ máy lọc lên tới 300 độ C, khói đen cuồn cuộn bốc lên. Một số quốc gia như Thụy Sĩ và Anh không gặp trường hợp này vì họ có trang bị những lò thiêu loại…oversize để đón tiếp những xác khi sống không chịu kiêng cữ!

Trong những năm sau 1975, nghĩa địa bị nhà cầm quyền đuổi tơi bời. Trước hết là những nghĩa địa quanh ngoại ô Sài Gòn như Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, nơi chôn cất của một số người thân của tôi chẳng hạn. Thời buổi khó khăn, người sống đã vất vả, người chết cũng không được mồ yên mả đẹp. Người người phải di chuyển thân nhân tới những nghĩa địa xa hơn. Rồi cũng bị chính quyền địa phương đuổi tiếp. Thôi thì cứ mang thiêu hết cho hết chạy vạy. Vậy là nghĩa địa biến thành…công trường! Mạnh ai nấy đào mộ, lượm xương, rửa cho sạch sẽ rồi mang thiêu. Tôi đứng giữa cát bụi mù trời, miệng mũi che bằng mảnh vải, đầu tóc bịt kín, giữa cái nắng chang chang, moi từng mẩu xương của ông bà lên, chẳng còn đủ tinh thần để xúc động. Gom xong những mớ xương từ vài ngôi mộ, mang vội ra thiêu. Thời đó làm chi có lò thiêu. Chúng tôi thiêu xương ngay cạnh những ngôi mộ giờ đã trống hốc trống hoác. Xương được để trên những mảnh tôn cũ, củi chất ở dưới, cứ như đun bếp. Thỉnh thoảng lại đảo qua đảo lại. Khi xương đã…chín, mới bóp ra thành tro, bỏ vào hũ. Nhưng chất đốt thời đó cũng rất…căng nên củi đâu mà đốt cho những ống xương lớn thành tro. Vậy là dùng búa đập cho nát nhừ. Ông bà có…đau thì cũng phải thông cảm cho con cháu. Thời buổi khó khăn, đến người chết cũng khó khăn!

Hỏa táng, địa táng, vậy là mới có hai món ăn chơi. Táng phong phú hơn nhiều. Dân boat people chúng ta còn biết tới thủy táng trong những lúc người thân gặp nạn trên những con tàu vượt biển. Cứ thường ra thì chúng ta ít chơi cái trò lạnh lẽo này. Thây chết trôi sông trôi biển, chúng ta còn cố vớt lên chôn cất tử tế nữa là! Mấy ông bạn tôi rùng mình, chết như vậy ngộp chết! Còn điểu táng, phơi xác trên núi cho chim tới rỉa dần. Trò này không có dân ta. Táng như vậy là không toàn thây, khó ăn nói với tổ tiên.

Tượng táng hay thiền táng là độc quyền của các thiền sư. Người trần mắt thịt như chúng ta chẳng rớ tới được. Ở chùa Đậu thuộc tỉnh Hà Tây có hai cái am. Am bên phải là của thiền sư Vũ Khăc Minh, am bên trái là của thiền sư Vũ Khắc Trường. Khoảng thế kỷ thứ 17, vào một ngày nọ, thiền sư Vũ Khắc Minh, tục gọi là sư Rau vì cụ chỉ ăn rau, bước vào trong am và nói với các đệ tử: mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta bả lên thi thể”. Tròn trăm ngày sau, các đệ tử không nghe thấy tiếng mõ nữa, vội mở cửa am thì thấy ngài vẫn ngồi đó như còn đang tọa thiền. Họ vội lấy sơn bả lên thi thể. Và nhục thân của ngài ngồi yên đó cho tới ngày 25 tháng 5 năm 1983. Ngày đó, Giáo sư Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thể về bệnh viện Bạch Mai để chiếu tia X. Tất cả xương vẫn ở nguyên trạng, không có vết nứt trên sọ chứng tỏ óc và nội tạng không bị lấy ra, trong các xương không có cốt bằng kim loại. Giáo sư Cường kết luận: đây là một nhục thân nguyên dạng, khác với các xác ướp Ai Cập. Chất bồi đắp bên ngoài là hỗn hợp của sơn ta, mùn cưa , giấy dó và đất!

Lối táng ngồi thiền như vậy, chúng ta cũng chẳng với tới được. Còn sống nhăn răng, ngồi dài giờ đã khó, chỉ muốn nằm. Chết lại càng muốn nằm hơn nữa. Thôi thì cứ ai sao ta vậy. Cho..đại chúng!
Riêng tôi, tôi khoái lối táng của một vài người quen. Rải tro trong thiên nhiên. Người thích núi rừng sẽ thả tro trên những tàng cây xanh trên non cao. Người thích…tắm biển rải tro trên biển cả mênh mông. Phơi phới trở về với thiên nhiên. Hòa cùng thiên nhiên. Ở lại với thiên nhiên.

Chắc chắn trong chúng ta chưa ai có thể quên được tướng Ngô Quang Trưởng, vị tướng trấn nơi địa đầu giới tuyến trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007 tại Hoa Kỳ. Ước nguyện cuối cùng của ông là nắm tro tàn được trở về nơi các chiến sĩ của ông đã nằm xuống. Hơn một năm sau, vào mùa hè năm 2008, gia đình đã đưa tro của ông về để thực hiện ước nguyện của ông. Nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con trai út của văn hào Nhất Linh, đã kể lại giờ phút thiêng liêng đó. Nhà văn Nguyễn Tường Thiết là anh con chú con bác của bà Trưởng. Bà Trưởng, tên là Nhung, là con đầu lòng của nhà văn Thạch Lam. “Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam…Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khi khấn xong, ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên, mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử Việt Nam Cộng Hòa bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân, nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế - Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng trấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại. Rải tro theo gió trên đỉnh đèo Hải Vân, ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn”.

Rải tro của vị tướng Vùng I theo gió trên đỉnh đèo Hải Vân, lối táng thơ mộng, đầy tình chiến hữu này đã khiến nhà thơ Nhất Tuấn cảm tác.

Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công cũng thế mà thôi
Hải Vân tro rắc bốn trời
Hạt tro nào lạc vào nơi Cổ Thành?

06/2012