Chắc không ai trong chúng ta quên được tsunami, cơn sóng thần làm dân Nhật điêu đứng hơn một năm trước đây. Đúng ra là vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Biển đã chồm lên nuốt chửng nhà cửa, xe cộ, tàu bè, chó mèo, trâu bò và biết bao sinh linh thần dân của đất nước mặt trời mọc. Biển cướp của dân Nhật và cho lại dân Canada chúng tôi. Những đống rác biển, sau một năm lội sóng, đã vượt xuyên Thái Bình Dương tới tỉnh bang British Columbia bên bờ tây của Canada. Từ đầu năm tới nay, một số vật dụng như những trái banh và những chiếc chai đã là những thứ đầu tiên xuất hiện. Ngày 18 tháng 4 vừa qua, tới một chiếc xe mô tô cán mức sau khi vượt qua một đại dương mà không tốn một giọt xăng nào! Tốn chi được khi nó nằm trong một chiếc thùng container. Người tìm được chiếc xe trên bãi biển là anh Peter Mark. Anh đang tản bộ tại một bãi biển vắng vẻ ở đảo Graham thuộc tỉnh bang British Columbia thì bắt gặp một chiếc thùng sắt lớn màu trắng dạt lên bờ. Anh tò mò nhìn vào bên trong và thấy một chiếc xe mô tô. Điều đầu tiên anh nhận ra là logo của hãng xe Harley Davidson. Tiếp theo là bảng số đăng ký xe tại quận Miyagi. Đây là khu vực bị thiệt hại nặng nề nhất trong trận sóng thần năm ngoái. Chiếc xe đã bị rỉ sét hết. Anh thông báo và một đài truyền hình Canada cùng với nhân viên lãnh sự quán Nhật Bổn đã tới nơi quan sát. Tin tức được loan tải. Chính quyền Nhật cố gắng tìm chủ nhân của chiếc xe với rất ít hy vọng. Quận Miyagi đã bị sóng thần chơi cho tơi tả, biết bao nhiêu người đã bị sóng thần cuốn đi, người chủ của chiếc xe có thoát khỏi số phận nghiệt ngã của dân chúng nơi đây không?
Vậy mà chủ nhân của chiếc xe đã xuất hiện. Đó là anh Ikio Yokoyama. Anh vui mừng nói: “Ngay khi nhìn thấy bức hình của chiếc xe trên báo, tôi đã lập tức nhận ra chiếc xe của mình”. Anh cho biết anh đã để chiếc xe trong một container mà anh dùng như một nhà kho. Nhờ vậy nên nó nổi và trôi trên biển. Ngôi nhà của gia đình anh đã bị sóng thần cướp mất cùng với ba người trong gia đình. Riêng anh đã may mắn thoát. Cửa hàng bán chiếc xe cho anh Ikio đã hào hứng nhận sửa lại chiếc xe khi nó trở về lại Nhật Bổn. Anh Ikio đã xuất hiện trên đài truyền hình Nhật Bổn NHK để ngỏ lời cám ơn anh Peter Mark.
Cậu bé Misaki Murakami cũng may mắn như anh Ikio. Cậu đã nhận lại được trái banh trôi dạt tới đất Mỹ. Đây là trái banh cậu yêu thích nhất bị sóng cuốn đi cùng với toàn thể căn nhà và đồ đạc trong đó. Gia đình cậu rất hên khi không có ai bị bắt đi theo sóng thần. Trái banh yêu quí đã được cậu viết tên và địa chỉ trên đó nên nó mới biết đường tìm về chủ cũ.
Để chỉ những thứ thất lạc mà may mắn tìm lại được, chúng ta có câu “châu về Hiệp Phố”. Thực ra chúng ta chỉ nói theo chứ xuất xứ câu này là từ…xứ lạ! Hợp Phố hay Hiệp Phố là tên một quận, trước thuộc Giao Châu, nay thuộc tỉnh Quảng Đông bên Tàu. Theo Hán sử thì quận Hợp Phố ở ven biển và có một giống trai cho một loại ngọc quý. Ngửi thấy mùi tiền, bọn tham quan địa phương bắt dân lội xuống biển mò trai và dâng nộp cho chúng khiến dân chúng khổ cực vô cùng. Có lẽ vì vậy nên ngọc trai biến mất hết. Về sau, có một vị quan thanh liêm tên Mạnh Thường đến nhậm chức, cải cách chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì ngọc trai lại dần dần trở về. Vậy là…châu về hiệp phố!
Các cụ ta ngày xưa sính chữ Hán, làm thơ hay dùng điển tích. Càng nhiều điển tích càng ra cái điều…Hán rộng. Nhiều khi chỉ vài câu thơ mà chú giải điển tích đến phát mệt, làm phiền học sinh học thơ các cụ. Chắc trong chúng ta chẳng ai quên được những ngày khổ sở vì điển tích trên ghế nhà trường. Trong Đoạn Trường Tân Thanh cụ Nguyễn Du cũng…hợp phố như ai. Đó là đoạn Kim Trọng mê Thúy Kiều nên lân la thuê nhà ở gần. Một bữa chàng Kim bắt được một cành kim thoa mắc trên cây. Biết là của giai nhân, chàng mang về cất. Sáng hôm sau, Thúy Kiều lom khom tìm kiếm.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?
Điển tích Hợp Phố của anh Tàu dở ẹt, vậy mà dân ta cứ…hiệp phố từ thế hệ này tới thế hệ khác. Nhà văn miền Nam Phú Đức có hẳn một cuốn tiểu thuyết mang tên “Châu Về Hiệp Phố” xuất bản lần đầu năm 1926, in thành 20 cuốn nhỏ. Lối in này tới thế hệ tôi vẫn còn thấy khi chúng tôi say mê mỗi tuần chạy ra mua một tập nhỏ của một bộ truyện kiếm hiệp Tàu.
Ngay cuốn Đoạn Trường Tân Thanh, còn được gọi là “Truyện Kiều” hay “Kim Vân Kiều” mới đây cũng đã xảy ra chuyện…hiệp phố. Trong Hội Nghị Quốc Tế về Chữ Nôm được tổ chức tại Huế vào hai ngày 1 và 2 tháng 6 năm 2006, giáo sư Nguyễn Quảng Tuân đã giới thiệu một bản Kiều viết bằng chữ Nôm được đưa về từ…Mỹ! Đó là bản Kiều nôm được Hoàng Giáp Nguyễn Hữu Lập (1824-1874), hiệu là Tiểu Tô Lâm, người làng Trung Cần, tổng Nam Hoa, huyện Thanh Chương, trấn Nghệ An san cải và hoàn thành việc chép lại vào ngày 19 tháng 8 năm Canh Ngọ (Tự Đức thứ 23), năm dương lịch là 1870. Trải qua bao nhiêu năm không biết quyển sách này đã lưu lạc những đâu mà rồi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 được bày bán trên vỉa hè Sài Gòn. Con trai của Giáo sư Đàm Quang Hưng đã mua được vào năm 1976. Giáo sư Hưng kể lại: “Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi đã từ Sài Gòn qua định cư ở Hoa Kỳ. Con trưởng tôi là Đàm Quang Trứ, bị tai nạn tàn tật cả hai chân, đi đứng rất khó khăn, nên không đi theo tôi được, mà phải ở lại Việt Nam. Năm 1976, con tôi tình cờ mua được một bản Kiều nôm trong một chồng sách báo cũ bày bán ở vỉa hè Sài Gòn và báo tin cho tôi biết. Tôi bảo con tôi cứ giữ lấy và khi nào được sang Mỹ đoàn tụ với gia đình thì sẽ mang sang cho tôi. Năm 1982, con tôi được qua Mỹ và đã mang quyển Kiều nôm ấy sang cho chúng tôi. Khi đọc, tôi rất mừng được biết rằng bản Kiều nôm do Tiểu Tô Lâm chép tay là một di sản văn học dân tộc vô cùng quí giá. Sau nhận thấy tờ bìa của bản gốc đã bị rách thành nhiều mảnh vụn nên vào ngày 14-2-1984, tôi đã tái tạo một tờ bìa mới để thay thế tờ bìa gốc. Khi ông Nguyễn Quảng Tuân sang Mỹ, tới Houston ngày 8-9-2000, tôi đã mang một bản photocopy sẵn có đến nơi ông tạm trú để biếu ông. Vì sách của tôi còn cho một người bạn mượn chưa lấy về nên ông chưa được coi bản gốc”.
Giáo sư Nguyễn Quảng Tuân đã phiên âm sang quốc ngữ bản Kiều nôm này và nhà xuất bản Văn Học hợp cùng Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học đã cho xuất bản vào năm 2003. Ngày 13 tháng 2 năm 2006, Giáo sư Đàm Quang Hưng, lúc đó đã 76 tuổi, quyết định giao hẳn bản gốc cho Giáo sư Nguyễn Quảng Tuân cất giữ. Giáo sư Tuân đã phải cho một người con sang tận Houston để nhận cuốn sách quý giá này chứ không dám gửi Bưu Điện hoặc nhờ người cầm về vì sợ thất lạc. Cuốn sách quá quý vì, cho tới nay, đây là bản kinh duy nhất còn sót lại.
Chắc có nhiều độc giả đã biết sự phân biệt bản kinh và bản phường của Truyện Kiều. Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi ông đi sứ nhà Thanh về và, theo truyền tụng thì Phạm Quý Thích đã cho khắc bản in vào khoảng từ năm 1820 đến 1825. Bản này thường được gọi là bản kinh. Bản khắc in đó nay không còn nữa nhưng còn lưu lại những bản di dịch ít nhiều, trong số đó có bản do Nguyễn Hữu Lập chép lại mà Giáo sư Nguyễn Quảng Tuân hiện còn lưu giữ. Ngoài bản kinh, sau này có một số dị bản khác được in ở Hà Nội do các nhà in phát hành, được gọi là bản phường.
Bản kinh của Nguyễn Hữu Lập đã đi…bụi tới 106 năm cho tới khi ông Đàm Quang Trứ tìm thấy vất vưởng trong đống sách cũ tại Sài Gòn. Chắc con đường lưu lạc của cuốn sách này không thẳng tắp từ Huế vào Sài Gòn, tôi đoán già đoán non vậy. Có thể nó cũng đã tạt qua Hà Nội hay các tỉnh thành khác. Có thể nó cũng đã tạt qua quê hương Tiên Điền thuộc Hà Tĩnh của tác giả. Sau đó bản Kiều này lưu lạc qua Mỹ trong 24 năm nữa và chỉ…hiệp phố vào năm 2006. Kể cũng là vất vả.
Chuyện chiếc huy chương của nhà văn Nguyễn Đình Toàn cũng vất vả không kém. Năm 1973, nhà văn Nguyễn Đình Toàn được trao giải “Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc”, bộ môn Tiểu Thuyết với tác phẩm “Áo Mơ Phai”. Truyện dài “Áo Mơ Phai” là một feuilleton được đăng hàng ngày trên nhật báo Tiền Tuyến, sau được Văn Học xuất bản thành sách. Áo Mơ Phai lấy khung cảnh Hà Nội trước năm 1954 với những cuộc tình thơ mộng ngày đó.
Giải thưởng gồm những gì tôi không được biết mà tôi cũng chẳng muốn hỏi. Chỉ biết có một huy chương được để trên một lớp vải sa tanh màu xanh dương trong chiếc hộp màu trắng. Chiếc huy chương này cũng long đong rồi…hiệp phố. Sau 1975, Nguyễn Đình Toàn cũng cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác, bị ruồng bố và bắt vào tù. Trong cuộc lục soát nhà để bắt ông đi, chiếc huy chương đã…mất tích. Thôi thì cũng đành. Chuyện thân mình lo còn chưa xong thì cái huy chương là chuyện nhỏ. Sau đó Nguyễn Đình Toàn được ra tù và qua định cư ở Mỹ. Một bữa ông nhận được một cú phôn của một người lạ muốn gặp ông. Đó là một anh bạn trẻ mang chiếc huy chương đến để trả lại chủ nhân của nó. Chiếc huy chương không biết bằng cách nào đã ra tới Hà Nội và được mang ra bán trong mớ đồ tầm tầm bên vỉa hè. Nhà văn của chúng ta đoán là trong cuộc lục soát nhà, một anh công an nào đó có lẽ thấy chiếc huy chương nằm trong chiếc hộp đẹp đẽ nên tưởng được đúc bằng vàng, bèn bỏ túi. Nhưng khi biết đó chỉ là đồng thì bỏ. Anh bạn trẻ là một người Việt ngụ tại quận Cam về Hà Nội chơi đã thấy chiếc huy chương. Anh chú ý tới nó vì anh thấy cái huy hiệu của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Anh bèn mua về, không biết giá bao nhiêu nhưng tôi đoán chắc là cái giá rẻ mạt. Về nhà anh mới thấy hàng chữ khắc trên mặt sau của huy chương: “Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc năm 1973 do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa sáng lập. Ông Nguyễn Đình Toàn, giải chính thức Tiểu Thuyết (72-73) và tác phẩm Áo Mơ Phai”. Anh thanh niên này chẳng biết Nguyễn Đình Toàn là ai nên đã đi hỏi, vào internet tìm, để có được số phôn của Nguyễn Đình Toàn. Vậy là…châu về hiệp phố! Trong căn phòng khách nhà ông bạn Nguyễn Đình Toàn, một buổi chiều cuối năm 2011, tôi đã được coi chiếc huy chương đi lạc và trở về với chủ cũ một cách khá kỳ lạ. Lớp đồng đã teng, chữ đã mờ. Tôi ngậm ngùi mân mê chiếc huy chương. Biết là đang cầm trong tay một…điển tích li kì và ý nghĩa gấp bội cái điển tích vô duyên châu về Hợp Phố. Sẵn chiếc máy hình mang theo tôi đã xin phép bạn chụp hình. Tôi nói với Toàn: “Chưa biết để làm chi nhưng cứ chụp để đó, sẽ có khi dùng tới”. Nhà thơ Thành Tôn có mặt trong phòng đã lục trong tủ sách cuốn “Áo Mơ Phai” để tôi chụp chung với chiếc huy chương. Tôi đã bấm lia lịa cả chục tấm hình. Để ghi dấu một cuộc…về!
Chính nhà thơ Thành Tôn cũng đã nhiều lần làm con thuyền đưa sách…hiệp phố với tác giả. Thành Tôn là người mê sách hơn mê người đẹp. Thấy sách mới là anh sáng mắt, rờ mó, mân mê, ngửi hơi sách. Sau 1975, sách vở tan nát chạy ra vỉa hè, anh lần mò đi tìm sách cũ của bạn bè, mua về để đó. Khi sang Mỹ, anh mang theo và tặng lại các tác giả của chúng. Những đứa con lưu lạc, nhiều đứa bị bầm dập thương tích, đã trở về với người sinh thành ra chúng. Như tập thơ “Tay Gõ Cửa Đời” của Du Tử Lê đã được (hay bị?) một em học sinh, trong tình trạng thiếu giấy viết sau cuộc đổi đời, dùng làm giấy viết bài nơi những trang trắng. Tập thơ “Tình Khúc Tháng 11” cũng của Du Tử Lê là một bản Du Tử Lê đã ký tặng “một cô gái gặp tại Ngã Bảy”. Cầm lại tập sách tặng người đẹp năm xưa, không biết nhà thơ của chúng ta nghĩ gì. Chắc ngậm ngùi dữ! Nhà thơ Nguyễn Đình Toàn chẳng giữ được một tập thơ nào của ông xuất bản ở Việt Nam. Nhưng truyện thì ông giữ được đủ bộ. Vậy mà Thành Tôn mang tặng lại ông tập thơ “Mật Đắng” lưu lạc ra vỉa hè được ông vớt lại đưa về…hiệp phố. Nhà thơ Viên Linh nhận lại được cuốn “Hóa Thân” đã…hóa thân mất tiêu vì ông chẳng giữ được bản nào. Nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã cảm động viết vào hai tập thơ thất lạc được Thành Tôn tặng lại. Trên cuốn “Tình Ca” là câu: “Chúng ta hãy cùng nhau trở về thời tình ca”. Và trên tập thơ “Lục Bát” do nhà Con Đuông ở Cần Thơ xuất bản là câu cám ơn: “Nghìn lần cảm ơn anh Thành Tôn. Nhờ anh có tình với thi ca nên tôi được sống lại”.
Chúng ta có những thứ đi mà không bao giờ về. Đau và tiếc. Chúng ta thường tự an ủi bằng câu: của đi thay người. Hy vọng là cái xui này chống đỡ cho cái xui khác lớn hơn có thể xảy ra. Vậy là hết tiếc. Nhưng cái xui và cái hên nhiều khi lẫn lộn làm chúng ta tẩu hỏa nhập ma chẳng biết thế nào là xui thế nào là hên. Đó là…tái ông thất mã! Lại một điển tích khác của…nước lạ. Điển tích này hầu như mọi người đều biết cả, tôi chỉ xin tóm tắt rất sơ lược. Tái ông có nghĩa là ông lão ở biên giới. Biên giới đây là ranh giới giữa Tàu và nước Hồ. Ông lão nuôi một con ngựa. Một bữa con ngựa này giang hồ chạy qua biên giới nước Hồ mất tiêu. Hàng xóm tới chia buồn, ông nói: biết đâu đó là một điều tốt. Quả nhiên con ngựa trở về có dắt theo một con ngựa Hồ thuộc giống quý. Hàng xóm lại qua mừng ông lão có thêm chú ngựa bonus. Biết đâu đây lại là chuyện xấu, ông lão nói. Con trai ông lão thấy con ngựa quý, khoái quá leo lên cưỡi bị té gãy chân. Hàng xóm lại sang chia buồn. Ông lão lại ngôn: biết đâu đây chẳng là điều tốt! Ông lão phán cứ như bố con chó xồm. Nếu tôi là hàng xóm chắc chẳng thèm sang chia vui chia buồn làm chi với ông lão nói năng dễ ghét này. Người ta có lòng tốt sang chia sẻ sự buồn vui mà ông già này chuyên nói ngược. Tức chết đi được! Nhưng ông lão dễ ghét này nói năng loạng quạng như vậy mà trúng phóc. Ít lâu sau, nước Tàu có chiến tranh, thanh niên phải đi quân dịch, con trai ông què quặt được miễn, an toàn ở lại với gia đình. Điển tích tới đây là hết. Sách Hoài Nam Tử chép lại chuyện này, kết bằng luân lý giáo khoa thư: “Họa là gốc của phúc, phúc là gốc của họa. Họa phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái hậu quả của nó. Do đó, người đời sau lập ra thành ngữ: tái ông thất mã, an tri họa phúc (ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc). Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được phước thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến; khi gặp điều họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên bắt chước tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống”.
Cộng đồng người Việt hải ngoại vừa có một chuyện có thể coi như chuyện… tái ông thất mã. Em Diane Trần, 17 tuổi, học sinh lớp 11 của trường Willis High School tại tiểu bang Texas, là học sinh giỏi, luôn được điểm A, nhưng thường hay bỏ học. Theo luật của tiểu bang Texas thì học sinh tuổi từ 12 tới 18 không được bỏ học quá 10 ngày trong vòng 6 tháng. Nếu vi phạm sẽ bị tội tiểu hình loại C. Em Diane Trần bị ra tòa hai lần. Trước tòa em cho biết lý do. Em là học sinh đạt điểm cao trong lớp nên đã lấy thêm 3 lớp AP là lớp dành cho những em có trình độ cao để chuẩn bị cho đại học. Em đang học bình thường thì cha mẹ em ly dị. Cả hai bỏ đi các tiểu bang khác để lại em bơ vơ với một người anh còn đang học đại học và một người em nhỏ. Em phải đi làm toàn thời gian tại một tiệm giặt ủi và cuối tuần làm cho Vineyard of Waverly Manor, chuyên cho thuê phòng để làm đám cưới. Làm việc như vậy nên đôi khi em phải bỏ học vì kiệt sức. Nhiều khi em phải thức tới 7 giờ sáng mới hết việc, ngủ vùi không thể đến lớp được. Hoặc cố gắng đến trường thì trễ giờ sau khi thầy cô đã điểm danh rồi! Lần thứ nhất ra tòa, thẩm phán Lanny Moriarty đã ra lệnh cấm em vắng mặt thêm nữa. Em đã không theo được lệnh của tòa khi vẫn phải vắng mặt vì phải làm việc nuôi ba anh em. Tổng cộng em đã vắng mặt 18 ngày tất cả. Vậy là em phải ra tòa lần thứ hai và bị tòa án quận Montgomery kết tội khinh miệt tòa, phạt 100 đô và ngồi tù 24 tiếng. Em bị đưa vào tù ngay sau phiên tòa. Như vậy là hồ sơ em có án rất hại cho tương lai của em.
Vậy là dư luận xôn xao khi chuyện thương tâm của em Diane Trần được lên báo. Một thỉnh nguyện thư do cô Catherine Oh, người Đại Hàn, cư ngụ ở California thảo ra đã được đưa lên mạng để xin tha cho em. Tôi không cần suy nghĩ, đã ký ngay để mong cứu em ra khỏi bước đường cùng. Tính tới 7 giờ 38 phút chiều ngày 30 tháng 5, đã có 251.953 chữ ký. Một kỷ lục tạo được trong một thời gian rất ngắn. Tổ chức Lousiana Children’s Education Alliance đã mở ngay website www.helpdianetran kêu gọi mọi người giúp đỡ cô bé tội nghiệp này một cách thiết thực bằng tài chánh. Cũng trong một thời gian kỷ lục, tổ chức này đã nhận được sự đóng góp của các mạnh thường quân từ 50 tiểu bang của Mỹ và 18 quốc gia khác số tiền mà tổ chức này mong đợi là 100 ngàn đô. Trước áp lực của dư luận, ngày thứ tư 30 tháng 5 vừa qua, thẩm phán Moriarty đã xóa bản án cho em Diane Trần. Hồ sơ của em sẽ trắng tinh như mọi học sinh bình thường khác.
Không lẽ chúng ta phải cám ơn ông thẩm phán cứng nhắc Moriarty cứ luật mà thi hành chẳng thèm xét tới những yếu tố giảm khinh. Ông đã ra tay tặng em bản án làm em khóc sướt mướt. Đó là cái họa. Nhưng cái họa này đã làm công chúng biết tới sự khó khăn gần như tuyệt vọng của em, họ đã đứng lên ủng hộ em, góp tiền để em có một cuộc sống đầy đủ khả dĩ yên tâm học hành mà không phải chạy vạy xấc bấc xang bang. Đó là cái phước. Trong họa có phước, đúng là…tái ông thất mã.
Nhưng lại có tin là em Diana Trần tuyên bố không nhận số tiền này vì muốn nhường cho “các em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn hơn”. Luật sư của em, ông Brian Wice, nói với trang blog của tờ Houston Press: “Chắc chắn là Diane rất choáng ngợp khi nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của mọi người. Có thể, với tính cách của mình, em muốn dành số tiền này cho những người kém may mắn hơn. Nhưng tôi nghĩ những người quyên góp cho em sẽ mong muốn số tiền được dùng để trang trải học phí đại học cho Trần, và tôi sẽ cố gắng thuyết phục em nhận”. Vậy là họa hay phước cho cử chỉ rất đẹp của em nhỏ 17 tuổi. Chắc là phước. Làm phước chắc sẽ được hưởng phước.
Nhưng rồi người quản lý quỹ giúp em Diane Trần, bà Mary Elliot, cũng chính là bà chủ của Vineyards of Waverly Manor, nơi Diane làm việc vào cuối tuần đã thuyết phục được em nhận số tiền này. Diane là bạn thân với cháu ngoại của bà Mary và hiện đang cư ngụ tại đây. Diane chỉ nhận đủ số tiền ăn học, phần còn lại sẽ nhường cho các em học sinh nghèo khác. Một số trường Đại học đã tiếp xúc với Diane Trần để tặng học bổng cho em. Con đường đại học của em chắc chắn sẽ rất thênh thang. Vậy là phước đứt đuôi chứ còn ngôn chi nữa!
Họa phước là chuyện đời. Biết chia sẻ với tha nhân là chuyện của người. Em Diana, tuy mới 17 tuổi, nhưng đã chững chạc làm người. Hơn chán vạn lũ nhân gian khác.
06/2012
|