1.
Lang thang nơi Quận 13 ở Paris tôi bỗng bắt gặp tấm bảng văn phòng du lịch và bán vé máy bay của người Hoa. Thử vào coi có chi lạ không. Anh nhân viên nói tiếng Việt đưa ra mấy cái tua ngắn ngày. Bắt ngay một cái. Vậy là lại làm va ly!
Tour theo định nghĩa của tôi là đi chơi có người dắt. Dắt là đưa một người ngu ngơ đi theo một con đường nào đó một cách an toàn. Cảnh chúng ta thường thấy là các cô giáo nhà trẻ dắt các em đi dạo phố. Mỗi em được khoác một chiếc áo đồng phục của nhà trường và tay níu vào một sợi dây cho khỏi lạc. Du khách là những người lớn, có thể tự túc được nhưng đi vào đất lạ rất có thể cũng bị lạc nên cũng phải có người dắt. Người lớn không bắt phải mặc đồng phục cho dễ nhận ra như con trẻ nhưng được phát cho một cái bảng đeo tòong teng trước ngực để dễ nhận ra khi vào những tụ điểm du lịch có đông người thuộc nhiều đoàn khác nhau. Người dắt chúng tôi trong chuyến du lịch bốn ngày này là một bà Trung Quốc khoảng bốn chục cái xuân xanh. Trông tướng đi người ta không nghĩ bà là đàn bà. Bà có hai niềm đam mê: hút thuốc và đánh bài. Những người được bà dắt đi chơi có vô ý tới đâu cũng biết được hai thú vui của bà. Hở ra là bà phì phèo điếu thuốc. Tối tối, lùa được năm chục con người vào khách sạn xong là bà biến đi casino. Được cái bà có tính khí…đàn ông. Rất thẳng thắn. Muốn nói chi là nói. Ông Bá Dương có cuốn sách “Người Trung Quốc Xấu Xí” kể những thói hư tật xấu của con dân xứ Tàu thì bà, cũng Tàu như ông Bá Dương, cho biết rất mắc cở khi phải dắt những đoàn du khách Tàu đi chơi. Ngặt cái là hãng du lịch bà làm việc là một hãng Tàu. Vậy mà bà không care. Tua này là tua nói tiếng Pháp nên du khách không có người Hoa. Cũng hầu như không có người Pháp. Rặt người Việt, Lào, Căm Bốt. Kể ra cũng có hai người Pháp chính cống đấy, nhưng một ông có vợ Việt, một bà có chồng Việt. Bà cho biết người Tàu ồn ào, hay xả rác, không cho tiền tip và hay ăn cắp vặt. Bà cho biết thường họ lấy khăn tắm trong các phòng khách sạn. Khi bị vỡ lở họ bảo lấy làm kỷ niệm. Bà lên giọng: “Kỷ niệm chi mà khách sạn có bao nhiêu loại khăn tắm, khăn lau người, khăn rửa mặt, họ lấy tuốt. Sau một chuyến du lịch, họ lấy đầy nhóc một va li toàn thứ của chùa!” Xỉ vả đồng hương như vậy là vì bà đang cơn giận. Buổi sáng, khách trả xong phòng, ngồi đầy đủ trên xe ca, vậy mà bà vẫn bặt vô âm tín. Mấy bà khách nhiều chuyện thả bong bóng: chắc tối qua “nàng” lại casino nên dậy trễ! Rồi bà cũng xuất hiện, cái mặt chầu bầu. Bà xả sú bắp: khách sạn bắt bà đi cùng họ kiểm soát khắp các phòng bà thuê coi có mất chi không!
Bà…Bá Dương này tạo thành tích ngay từ lúc khởi hành. Chúng tôi được dặn dò kỹ lưỡng có mặt trước Palais de Congrès trễ nhất là 8 giờ 15 phút sáng để điểm danh lên xe và khởi hành đúng 8 giờ rưỡi. Lại còn được dặn kỹ nếu đi metro thì xuống ga Porte de Maillot, ra cửa số 4. Chậm lỡ chuyến…xe đò thì ráng chịu. Năm chục nhân mạng có mặt đông đủ đúng giờ như một đàn gà con lạc mẹ. Hướng dẫn viên bặt vô âm tín. Mãi tới 8 giờ 45 “nàng” mới xuất hiện! Trễ còn hơn không, chiếc xe du lịch máy lạnh đầy đủ tiện nghi do anh tài xế người Áo lái trực chỉ đường ra biên giới.
Gọi là biên giới nhưng từ ngày có Thị Trường Chung Âu Châu với 27 nước hội viên thì biên giới có cũng như không. Chẳng ai xét hỏi. Anh tài xế cho biết từ khi các nước dùng chung đồng euro túi của anh đỡ vất vả hơn nhiều. Ngày trước mỗi nước đều có tiền riêng, qua biên giới là phải móc thứ tiền khác rất nhiêu khê rắc rối. Túi của anh luôn đủ các thứ tiền, chỉ nội phân chia tiền nào ra tiền đó cũng đủ thấy mệt. Mà biên giới có xa xôi chi. Cứ khoảng vài ba tiếng đồng hồ là xe đã lại qua nước khác, tiêu tiền khác.
Xe tiến vào nội địa nước Bỉ hồi nào không hay và đụng ngay ông Nã Phá Luân. Tôi thấy ông tướng lùn này đứng chót vót trên một cái cột cao. Biết được mảnh đất tôi đang đặt chân lên có tên là Waterloo, tôi nghĩ ông chẳng nên chót vót như vậy. Vì đây là nơi xảy ra trận chiến đưa ông tới ngõ cụt của cuộc đời.
Trận chiến xảy ra vào ngày Chủ Nhật 18 tháng 6 năm 1815. Vậy là khi tôi tới chỉ còn thiếu ba năm nữa là trận chiến đã có 200 năm tuổi. Ngày nay Waterloo nằm trong đất Bỉ nhưng khi trận chiến xảy ra nó thuộc vương quốc Hòa Lan. Trận chiến giữa hai bên, một bên là quân Pháp do Napoleon thống lãnh, bên kia là liên quân của bảy nước do Quận Công Wellington cầm đầu hợp với quân Phổ do Gebhard von Blucher chỉ huy. Năm 1815, Napoleon trở lại nắm quyền điều khiển nước Pháp khiến cho các nước lân cận lo ngại. Họ hợp nhau lại quyết trừ hậu hoạn. Liên quân bảy nước tiến đến sát biên giới Pháp. Napoleon cho quân ra ứng chiến để ngăn không cho đối phương tràn vào Pháp. Quân Pháp thua vì bị quân Phổ áp tới đánh vào sườn bên phải trong khi liên quân bảy nước hợp nhau tiến lên. Quân Pháp hỗn loạn. Liên quân thừa thế tiến vào nước Pháp, phục hồi ngai vàng cho vua Louis 18. Napoleon đầu hàng, bị bắt và bị đầy ra đảo Saint Hélène cho tới khi chết vào năm 1821.

Bãi chiến trường của trận đánh Waterloo xưa.
Bãi chiến trường xưa, nơi làm tiêu tan sự nghiệp của Napoleon, nay là một ngọn đồi nhân tạo hình tháp được đắp bằng đất lấy ở đúng bãi chiến. Trên đỉnh đồi là tượng một con sư tử. Khi tôi tới nắng chói chang. Du khách đua nhau leo lên đỉnh đồi. Đứng dưới chân đồi chụp hình, tôi thấy người người leo tít trên cao. Chỉ nội nhìn không đã thấy mệt. Vậy nên tôi chẳng có dịp đứng bên cạnh chú sư tử dũng mãnh. Ít khi có mặt tôi trong những chuyện đổ mồ hôi như vậy!
Waterloo là trận chiến cuối cùng của Đại Đế Napoléon. Điện Fontainebleau, nằm cách Paris 55 cây số, là nơi Napoleon vĩnh biệt đám cận thần của ông khi bị đi đầy vào năm 1814. Chỉ một năm sau ông trở lại và gây nên trận chiến Waterloo. Tôi đã tới thăm cung điện này trước đó. Đi tới xạc cẳng cũng chẳng hết được 130 mẫu tây vừa vườn tược vừa rừng săn bắn của khu cung điện này. Chỉ nội cung điện có tới 1500 phòng cũng đủ phờ râu thăm ngắm. Chẳng ai có thể thăm hết được. Palace de Fontainebleau được xây cất từ thế kỷ thứ 16 giữa một khu rừng đầy thú hiếm nhưng phải hai thế kỷ sau, khi Napoleon chọn nơi này làm…cung cấm thì cung điện này mới khởi sắc. Chính Napoleon đã rời cung về đây để tránh cung điện Versaille vốn đã có quá nhiều liên hệ tới dòng họ Bourbon. Vị quân vương này, trong một thập niên, đã biến đổi chốn hoang phế thành một nơi uy quyền, tượng trưng cho sự huy hoàng của triều đại Napoléon. Chính tại cung điện này, vào năm 1804, ông đã tiếp Giáo Hoàng Pius VII trong dịp Giáo Hoàng qua phong hoàng đế cho ông. Và từ năm 1812 đến 1814, cũng Giáo Hoàng này đã bị Napoléon giam lỏng tại đây.

Cổng vào Chateau de Fontainebleau
Vào một ngày cuối tháng 7 năm 2012, gần hai trăm năm sau thời huy hoàng của Palace de Fontainebleau, tôi vẫn còn thấy tấm phướn lớn có vẽ hình Napoleon và Hoàng Hậu Josephine phất phới trong gió nơi lối vào cung điện. Mải mê với sân vườn, ao hồ vừa nhiều vừa rộng lớn của cung điện trong ngày hè nắng chói chang, khi tôi vào thăm các phòng ốc thì vừa hết giờ thăm viếng. Đứng ngẩn ngơ trước sợi dây đỏ chắn ngang lối vào với một ông gác y phục chỉnh tề nhất định lắc đầu trước đám du khách trễ tràng, tôi tiếc đứt ruột. Chẳng lẽ lại đổ tội cho những vạt nắng hè, tôi đành đấm ngực mea culpa nhận lỗi. Từ ngày học sử thế giới tại ngôi trường Chu Văn An Sài Gòn, tôi đã mến bà hoàng nhan sắc này. Nay tới chỗ thâm cung lại đứng vẩn vơ bên ngoài. Nhưng chỉ nội việc thăm thú phía bên ngoài cung điện nguy nga cũng đủ vớt được chút hương xưa của người đẹp!
Waterloo chỉ cách thủ đô Brussels của Bỉ có 13 cây số. Thoáng một cái, xe đã vào thủ đô. Nơi mà du khách nào cũng được đưa tới là vùng downtown với tượng chú bé đứng tè ở một góc đường. Lần trước tới đây, chú bé trần truồng chẳng áo quần chi. Lần này chú diện ngất ngưởng với áo sơ mi trắng, cà vạt trắng, áo khoác đỏ, quần màu cứt ngựa. Phía dưới là một vòng hoa. Con chim be bé không bao giờ ngừng làm mưa ló ra khỏi chiếc áo khoác trông mất tự nhiên. Du khách chen lấn chụp hình. Cảnh tượng này tôi đã thấy y chang như mấy năm trước khi tôi tới ngắm chú trần truồng dõng dạc đưa bửu bối ra vung vẩy trước mặt các du khách. Tôi chán chú bé ăn diện diêm dúa, thả bộ quanh những con đường nho nhỏ lát gạch. Tiếng nhạc hòa tấu bản Symphonie số 5 của Betthoven làm tôi tìm tới những nghệ sĩ trình diễn ngoài đường. Họ gồm ba người chơi violon và violoncelle rất nhuần nhuyễn. Du khách vòng trong vòng ngoài nhún nhẩy theo nhạc, chụp hình và bỏ tiền vào hộp đàn đặt phía trước họ. Chưa bao giờ tôi thấy người ta tấp nập bỏ tiền sau mỗi bản nhạc nhiều như vậy. Âm nhạc vốn là tiếng nói chung của nhân loại nên những cái tai của du khách đều cảm được như nhau.
Còn cái miệng thì sao? Bỉ có hai đặc sản. Tôi khoái cả hai. Thứ nhất là bia Stella Artois có từ năm 1366 lận. Xe vào tới thủ đô Bruxelles của Bỉ thì những cái quảng cáo bia Bỉ này xuất hiện liên miên. Tôi thấy nó đập vào mắt ngay vì tôi vốn hẩu thứ bia này. Bia Stella Artois có vị khá lạ, không giống bia Mỹ, bia Canada hoặc bia Hòa Lan Heineken. Bia Bỉ chưa phổ biến ở thành phố Montreal nhưng được bán khá nhiều trong các siêu thị như Maxi, Métro, Loblaws... Mấy ông bạn tôi, vốn có tính a dua, thích theo thời, mộ mấy cái mác bia quen thuộc của Mỹ, Canada và Hòa Lan, thấy tôi tụng bia Bỉ, đã bóng gió: “Được cái…rẻ!”. Thực ra giá của bia Stella Artois tại Montreal cũng xêm xêm như các thứ bia khác, nhưng thỉnh thoảng có sale. Nói là thỉnh thoảng nhưng quả thật cái thỉnh thoảng này cũng hơi nhiều nên tôi luôn luôn mua được giá sale mà chẳng phải canh me như những thứ bia khác.
Đặc sản thứ hai là nhà hàng ăn Léon de Bruxelles. Chuỗi cửa hàng ăn này đầy rẫy tại Paris. Hầu như bến métro hay shopping center nào cũng có. Trong những ngày lưu lại Paris tôi đã ba lần vào ăn tiệm này. Món đặc biệt của tiệm là món hào ăn với khoai tây chiên hoặc bánh mì. Và uống bia Léon của tiệm. Mỗi phần ăn là một thố hào khá lớn ăn mệt nghỉ. Có nhiều loại hào tùy theo liều lượng fromage, gia vị và ớt. Hình như tiệm này phát ngoài Bruxelles. Bởi vì tôi thấy ở Bruxelles coi bộ hiếm nhà hàng này hơn ở Paris. Cái tên Léon lấy theo tên của người sáng lập, ông Léon Vanlancker. Tiệm đầu tiên vào năm 1867 chỉ có năm bàn, nhỏ bằng cái lỗ mũi, mang tên A la Ville d’Anvers. Năm 1989 mới mở tiệm đầu tiên ở Paris. Vậy mà ngày nay đã có tất cả 67 tiệm ở Pháp. Không thấy nói tới số tiệm ở Bỉ. Vậy là chắc ông này có số làm ăn nơi xa. Mới đây chuỗi nhà hàng này mới mở tiệm đầu tiên ở Anh.
Xe lăn bánh qua Hòa Lan hồi nào chẳng hay. Nói tới Hòa Lan hình như mọi người đều nghĩ ngay tới những chiếc cối xay gió, một nét đặc trưng của đất nước này. Bốn năm trước, tôi đã có dịp tới Hòa Lan, nhìn mỏi mắt hai bên đường xe chạy chẳng thấy một cái nào. Không hiểu sao tôi lại khoái cái cối xay gió này như vậy. Có lẽ vì chuyện anh chàng Don Quixote của nhà văn Miguel de Cervantes ngu đần đánh nhau với lũ cối xay gió mà anh chàng hung hăng này tưởng là những địch thủ khổng lồ. Hay có lẽ vì cái mô hình nho nhỏ một chiếc cối xay gió do cô bạn Hòa Lan chơi correspondance gửi cho chăng? Dám lắm. Cái thời học sinh ngây ngô đó! Lần này, thấy tua có mục đi thăm vùng cối xay gió, tôi bắt ngay.
Cối xay gió ở Hòa Lan được thiết lập vào khoảng năm 1600. Thoạt kỳ thủy các cối xay chỉ có nhiệm vụ làm khô đất để việc đi lại được dễ dàng. Làm sao mà cối xay lại làm được chuyện này là điều tôi không được rõ. Tôi chỉ nghĩ là cối xay lợi dụng sức gió để xay ngũ cốc. Nghĩ như vậy không sai nhưng chưa đủ. Tới nơi mới biết cối xay thì có xay bột để làm bánh mì nhưng cối xay cũng còn kiêm luôn việc chế ra dầu thắp đèn và dầu ăn, làm mù tạt, làm fromage, thuốc lá. Chưa hết, cối xay còn xẻ gỗ, làm giấy và sơn!

Ngày nay cối xay gió hầu như…tuyệt chủng tại Hòa Lan. Nơi tập trung cối xay gió duy nhất còn lại ngày nay là vùng De Zaansche Molen, nằm bên bờ con sông De Zaan, cách thủ đô Amsterdam của Hòa Lan khoảng 15 phút lái xe. Nơi đây đã có lúc tập trung tới cả ngàn chiếc cối xay gió khiến vùng này được mang danh là vùng kỹ nghệ cổ nhất thế giới. Nhưng vào khoảng năm 1920 thì nơi đây chỉ còn độ 50 chiếc. Năm 1925, để giữ gìn hình ảnh chiếc cối xay gió đặc trưng của Hòa Lan, một tổ chức mang tên vùng này được thiết lập. Họ bảo toàn 12 chiếc cối xay.
Ngày nay nơi đây là một địa điểm thu hút nhiều du khách. Người người chen vai thích cánh trên những con đường đá nhỏ chen giữa những con rạch với những chiếc cầu nho nhỏ dành cho khách đi bộ. Thực ra trong khu cối xay này chỉ có xe đạp và người đi bộ. Quang cảnh như một nơi hội chợ với những gian hàng bán đồ kỷ niệm và thức ăn, những khu nuôi ngựa, dê, bò cho du khách coi. Người ta tổ chức đủ mọi thứ trò chơi cho con nít cũng như người lớn.
Bà hướng dẫn viên đưa chúng tôi vào một cối xay người ta đang biểu diễn làm fromage. Người người đông nghẹt. Đứng xem một lúc, tôi chuồn ra ngoài, lang thang giữa những chiếc cối xay, thích thú vì mộng đã thành. Vậy là tôi đã thực sự len lỏi giữa những chiếc cối xay thật.
Thấy một chiếc cối xay vắng du khách, có tấm bảng bảo đảm đây là một cối xay còn nguyên trạng. Tôi bỏ ra 3 euro mua vé vào coi. Chiếc cối xay này mang tên cối xay De Kat, nghĩa là Con Mèo! Tại sao lại là con mèo, tôi không rõ. Ngay sản phẩm trước đây của nó cũng chẳng ăn nhậu gì tới…mèo. Nó chuyên chế bột màu. Trước khi chiếc cối này sản xuất bột màu người ta phải nhập cảng những số lượng lớn từ các xứ khác để nhuộm vải. Với cối xay, người ta có thể cắt gỗ thành từng miếng. Sau đó những miếng gỗ được nghiền nát bởi những phiến đá nặng từ năm ngàn tới bảy ngàn kí rồi chuyển vào những bánh xe để chế thành bột màu. Đọc tài liệu người ta phát cho trước khi vào thăm cối xay Con Mèo thấy nói vậy thì biết vậy. Còn họ làm ra sao, tôi đã tò mò quan sát từ dưới lên tới đỉnh cối xay cũng chẳng thể tưởng tượng ra được. Nhưng nguyên việc được chui vào chiếc cối xay đã đáng giá 3 euro! Đáng đồng tiền hơn nữa là trước đây chỉ có 55 chiếc cối xay làm màu nhuộm, nay chỉ còn chiếc này là chiếc duy nhất trên thế giới. Được leo lên leo xuống vào thứ độc đáo này, nghĩ đã thấy thống khoái. Những chiếc thang gỗ trong cối xay được dựng thẳng đứng, rất vất vả khi leo. Leo lên còn tương đối dễ, leo xuống mới muôn phần cay đắng. Phải dựa lưng vào những bậc thang, từ từ leo xuống. Leo như kiểu chúng ta thường leo là mắc kẹt. Vất vả vậy mà du khách hầu như ai cũng muốn thử. Nhỏ ngưòi như tôi còn dễ, có những ông bà thịt một đống, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, xoay chuyển người sao cho lọt trong không gian chật hẹp của một chiếc lỗ vuông được khoét trên sàn nhà mới thập phần khó khăn. Lên trên tầng hai, tôi vòng ra lan can phía bên ngoài. Chiếc cánh cối xay sát sạt bên đầu. Chưa hả say mê, tôi leo lên tầng trên nữa. Sàn tầng này nhỏ tí tẹo. Các ông bà có thân hình phì nộn nhìn lên lắc đầu. Lên sao nổi. Tôi nghĩ ngày xưa tuyển thợ làm việc chắc người ta phải tính tới kích thước. Nhưng ngày xưa dân thợ thuyền chắc đâu có dư thịt dư mỡ như mấy ông du khách bây giờ mà lo!
Xuống phía dưới, tôi vào quầy bán đồ kỷ niệm. Tràn lan đủ thứ. Đại khái cũng giống như những nơi moi tiền du khách tại các địa điểm du lịch khác. Chỉ có cái là nơi đây cái chi cũng có dính tới cối xay. Và tất cả đều là thứ made in China! Tôi chọn mua một mô hình cối xay để về chưng trong nhà. Chiếc mô hình ngày xưa của cô bạn chơi viết thư pen pal gửi từ Hòa Lan qua đã mất qua những lần đổi dời. Tôi chẳng nhớ là mất vào lúc nào. Trông thấy chiếc cối xay gió bé tí tẹo giông giống như chiếc cối xay ngày còn trong tuổi học trò xưa tôi để trên bàn học, tôi cầm ra bàn tính tiền.
Cuộc đời nào chẳng là những cuộc xoay vần. Từ cả ngàn chiếc cối xay nay chỉ còn đúng 12 cái nơi tôi đang đứng. Cái thằng tôi, thoắt đó mà bây giờ tóc đã trắng, chân đã mỏi. Còn leo lên được những chiếc thang dựng đứng trong cối xay là phúc đức lắm rồi. Tôi bỗng có một ý nghĩ têu tếu. Nếu bây giờ gặp lại cô bé học trò Hòa Lan gửi cho tôi chiếc cối xay nho nhỏ ngày xưa thì sẽ ra sao.
Vẽ chuyện! Làm chi còn cô nhỏ sau nửa thế kỷ đằng đẵng!!
2.
Sáng sớm, xuống phòng ăn sáng nơi khách sạn NH ở Amsterdam thấy người sảng khoái. Phòng ăn có những bức tường bằng kính trong suốt như chẳng có chút ngăn cách nào với khu vườn bên ngoài. Lấy chiếc bàn sát tường, nhìn những đóa hoa vừa thức dậy bên kia tấm kính, quay xuống đĩa đồ ăn trên bàn, thấy miếng khăn ăn bằng giấy có điều chi khác lạ. Cái logo của khách sạn chỉ một màu xanh nhạt giản dị nằm khép nép dưới góc phải khăn ăn. Hàng chữ bên cạnh: Wake Up To a Better World. Thức dậy cho một thế giới tốt đẹp hơn. Kể là vui. Nhưng những dòng kẻ màu đen nằm dài suốt miếng khăn giấy vui hơn. Như chờ đợi những câu thơ. Hàng chữ phía trên cùng mời mọc: Inspiration can hit you at any time. Cảm hứng có thể tới với bạn bất cứ lúc nào! Bỗng nhớ tới ông nhà vẽ Đinh Cường. Sáng nào ông cũng phải ra ngồi nơi quán cà phê Starbuck nhâm nhi. Tiện tay ông vẽ lên trên những chiếc khăn ăn bằng giấy của tiệm. Anh chủ tiệm chắc cũng có máu văn nghệ văn gừng sưu tầm những bức vẽ này, treo trên tường. Khách cà phê thích thú, người ngắm người mua. Vô tình ông họa sĩ của chúng ta tạo ra một trường phái mới: tranh…cà phê. Gần đây ông bỗng đổi tính thích làm thơ. Những bài thơ mini nhớ người này nhớ người kia, nhìn trước mặt, nhìn sau lưng. Tháng 3 năm nay, nhân sang Washington nơi ông cư ngụ, tôi vấn ông về việc…đổi nghề. Ông cười hiền lành: moa làm chơi cho đỡ bị alzheimer ấy mà! Trong mớ thơ…chống alzheimer của ông có mấy câu về phiếm:
tựa bài một chữ Song Thao đặt
bao nhiêu là chuyện ở trên đời
Phiếm xếp một hàng trên kệ sách
lâu buồn đọc lại thấy như chơi.
Tôi cất trong túi chiếc khăn ăn bằng giấy rất thơ mộng này vào túi. Để mang về tặng ông Đinh Cường. Mình không làm được thơ thì để cho ông họa sĩ làm thơ. Cho ông tập…nhớ! Tôi cũng nhớ. Nhưng không phải bỗng nhiên nhớ. Tôi nhớ tới ngày mấy đứa tụi tôi ngày ngày từ trường Đại học Văn Khoa, lúc đó còn ở trên nền Khám Lớn cũ, đi dọc theo đường Lê Thánh Tôn lên passage Eden, tới tiệm sách ngoại ngữ nho nhỏ canh mua cuốn The Diary of a Young Girl mà ông chủ ngày nào cũng nói sắp về. Tôi nhớ tới chuyện này khi tôi đang trên chiếc phà du lịch chạy trên sông dọc theo thành phố Amsterdam, bất chợt nhìn thấy cái tên Anne Frank trên một tòa nhà. Tôi sực nhớ là Anne Frank đã trốn tại Hòa Lan và viết những trang hồi ký này trong căn phòng trú ẩn. Anne Frank là người Do Thái có quốc tịch Đức. Tháng 5 năm 1933, gia đình Frank di cư tới Amsterdam tìm tự do sau khi Đức Quốc Xã lên nắm quyền ở Đức. Bảy năm sau, ngày 10 tháng 5 năm 1940, quân của Hitler tiến vào Amsterdam, gia đình của Anne lại lâm vào vòng nguy hiểm. Hai năm sau, họ phải trốn trong căn phòng bí mật ngay tại tòa nhà nơi ông Otto, cha của Anne, có văn phòng trước đây. Sau hai năm trốn chui trốn nhủi, họ bị phản bội và bị bắt. Hai chị em Anne bị đưa đi trại tập trung và mất vào tháng 3 năm 1945. Ông cha Otto Frank là người duy nhất sống sót sau khi chiến tranh chấm dứt vào cùng năm. Ông trở về nơi ẩn trốn cũ và tìm thấy tập nhật ký của Anne viết trong những ngày trốn tránh. Cuốn sổ nhật ký là quà tặng sinh nhật 13 tuổi và được cô viết từ ngày 12 tháng 6 năm 1942 tới ngày 1 tháng 8 năm 1944. Hai năm sau cuốn nhật ký nguyên bản bằng tiếng Hòa Lan được xuất bản và được dịch ra nhiều thứ tiếng sau đó.
Tòa nhà ngày xưa Anne Frank sống nay trở thành Bảo Tàng Viện Anne Frank, nơi cuốn nhật ký nguyên thủy được lưu giữ. Đây chính là nơi mà, từ dưới chiếc tàu trên sông, tôi đã nhìn thấy cái tên Anne Frank. Tôi muốn tới nơi đây để được tận mắt nhìn bản di cảo nổi tiếng thế giới này hết sức. Nhưng cái thân đi chơi có người dắt, mà người dắt không đưa tới, thì làm sao mà tới được. Đành hẹn cô bé hơn tuổi tôi nhưng vẫn muôn đời là một cô bé trong Nhật Ký Của Một Cô Gái Trẻ một dịp khác vậy. Tiếc đứt ruột!
Amsterdam đang vào hội. Hội gay. Khắp thành phố rợp bóng cờ năm màu của những người đồng tính. Những chùm bong bóng nhiều màu kết vào nhau lững lờ trước những tòa nhà. Đây là ngày hội đồng tính quốc tế. Tổ chức hội đồng tính ở đây là đúng chỗ vì Hòa Lan rất cởi mở. Cần sa ở đây được bán và hút tự do. Tôi đã vào thăm một cửa hàng bán ma túy. Mình không...nghề nên mắt cứ rối lên chẳng biết thứ nào ra thứ nào. Có những nơi công cộng, mùi cần sa khét lẹt. Rồi còn khu đèn đỏ. Các em bày hàng trong tủ kính mời mọc khách qua đường. Khu đèn đỏ là đặc trưng của Amsterdam. Du khách tới đây thường phải tới thăm các em. Phần lớn chỉ coi cho biết chứ chẳng mở cửa vô làm chi. Tôi cũng vậy. Nhìn qua tủ kính thấy hàng bên trong đủ màu sắc. Các em búp bê đứng trong tủ kính ở đây thường không phải là dân địa phương. Đa phần là dân nhập cư từ nước ngoài. Theo thống kê thì có khoảng 40% từ Trung Âu, 20% từ châu Mỹ La Tinh, 12% từ Tây Âu, 8% từ Phi Châu và 4% dân Á châu. Vậy nên khu chợ tình này mới đa sắc. Tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa xem dân Á châu tới từ nước nào thì hai nước Thái Lan và Phi Luật Tân chiếm thế thượng phong. Kể từ ngày bức tường Bá Linh sụp đổ thì các em Đông Âu tràn qua làm khu này mang màu sắc mới. Chuyện phóng khoáng trong cuộc sống là chuyện nhỏ đối với dân thành phố có nhiều xe đạp nhất thế giới này. Hầu như ai cũng có xe đạp, ai cũng có thể đi xe đạp. Xe đạp lềnh khênh khắp đường xá. Góc phố nào cũng là nơi để xe đạp. Cứ y như cả thành phố là một tiệm bán xe đạp cũ khổng lồ!
Từ Amsterdam đi The Hague khoảng 50 cây số, dư sức đạp xe tới. Nhưng tôi không phải là dân Amsterdam nên đành cỡi xe ca có máy lạnh đàng hoàng. Cho ra vẻ du khách! Nói The Hague theo tiếng Anh hay La Haye theo tiếng Pháp để chỉ thành phố mà dân Hoà Lan gọi là Den Haag, không biết có gợi cho các bạn điều gì chăng. Đó là nơi đặt trụ sở Tòa Án Quốc Tế, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, có nhiệm vụ xét xử các tranh tụng pháp lý do các quốc gia đệ trình và cho ý kiến về các vấn đề pháp lý do các tổ chức, cơ quan quốc tế hoặc do Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đệ nạp. Đây là một thứ tòa loại xịn chỉ chơi với các tranh tụng của các chính phủ và các cơ quan quốc tế nên rất ế khách. Thành lập từ năm 1945, sau Thế chiến thứ hai, Tòa Án Quốc tế rất nhàn nhã. Nhưng kể từ thập niên 1980, số vụ kiện tụng tăng hẳn lên với các vụ kiện của các quốc gia đang phát triển đệ nạp.

Toà Án Quốc Tế La Haye
Tôi tới toà án này chẳng với tư cách chi. Sức mấy mà được hầu tòa. Vậy nên vào một sáng Chủ Nhật, trời rất buồn, mưa sùi sụt, tôi lơ ngơ đứng trước tòa. Hai cánh cửa sắt có hoa văn rất cầu kỳ đóng im ỉm. Qua một khu vườn rộng, tòa nhà bên trong với những chiếc tháp cái lớn cái nhỏ nhô lên từ mái nhà sừng sững vẻ lạnh lùng. Du khách nườm nượp được các xe ca đổ xuống với những máy hình máy quay phim lỉnh kỉnh ra sức tìm góc cạnh chụp. Nhìn tòa nhà nghiêm nghị xa cách chừng dăm phút là thấy...cách xa, tôi chú ý tới đám du khách đang bao quanh một khu nho nhỏ bên phía phải. Họ làm chi vậy cà? Tôi chỉ nhìn thấy bên cạnh đám đông vài chiếc ghế đá vẽ hoa lá cành với màu sắc diêm dúa. Kể cũng lạ. Tôi đoán thâm ý của họ là mang màu sắc vào cho tòa nhà bớt vẻ nghiêm trang cô quạnh chăng. Tiến tới đám đông tôi thấy một kiến trúc nhỏ, thấp, có một chiếc lỗ tròn bên trong leo lét cháy một ngọn lửa. Quan sát một hồi mới biết đây là “ngọn lửa hòa bình thế giới”. Ngọn lửa cháy vĩnh cửu này do 197 quốc gia đã phê chuẩn bản “Tuyên Ngôn Hòa Bình” chung sức tạo dựng vào tháng 4 năm 2004. Các tòa đại sứ của các quốc gia này tại Hòa Lan đã góp mỗi nước một viên đá đặc trưng của nước mình tạo thành một vòng tròn quanh tháp lửa. Tôi tò mò lần theo tên các nước. Cũng dễ vì họ xếp theo vần ABC. Cục đá của Việt Nam nằm gần chót vòng tròn, nằm giữa Venezuela và Yemen. Nhưng hòn đá nào của Việt Nam, tôi không chắc chắn vì họ xếp so le. Tôi thấy có một tảng cẩm thạch xanh to hơn mấy hòn đá chung quanh đoán già đoán non là của nhà nước ta. Chẳng biết có đúng không. Thường thì nhà nước ta bao giờ cũng vẫn muốn...khẳng định!

Ngọn lửa hoà bình trước Tòa Án Quốc Tế
Bỏ lại Hòa Lan mà tôi rất thích mỗi lần đặt chân tới đất nước phóng khoáng này, xe đưa chúng tôi vượt biên giới tới Koln. Dân Pháp gọi là Cologne. Cologne gợi nhớ ngay tức khắc tới thứ nước thơm Eau de Cologne. Tôi bắt gặp một tiệm mang tên “4711 Original Eau de Cologne”. Đưa máy hình chụp, tôi thắc mắc về...bí số 4711. Nó là cái chi chi? Eau de Cologne là thứ nước thơm do ông Giovanni Maria Farina, người Ý, tung ra thị trường vào năm 1709 tại Cologne. Trong một bức thư viết cho người anh, ông cho biết: “Tôi đã kiếm ra được một thứ nước thơm gợi nhớ tới một buổi sáng mùa xuân ở Ý, tới những đóa hoa vàng trên núi và mùi hoa cam sau cơn mưa”. Để tạ ơn vùng quê hương mới, ông đặt tên cho thứ nước thơm mới tinh này là Cologne. Eau de Cologne được hầu hết các hoàng gia tại Âu Châu yêu thích và đặt mua. Năm 1797, khi người Pháp cho tự do mậu dịch với Cologne, eau de Cologne được các thương gia chế tạo riêng bán tùm lum khắp chốn. Nổi nhất là Cologne 4711. Bí số này chỉ là số nhà của xưởng sản xuất: Glockengasse No. 4711. Năm 1806, hậu duệ của ông tổ eau de Cologne là Jean Marie Joseph Farina, mới thành lập nhà sản xuất eau de Cologne nguyên thủy tại Paris trình bản quyền thứ nước thơm mang tên “Eau de Cologne Extra Vieille” ra cái điều ta đây mới là thứ chính cống bà lang trọc. Thứ sản xuất ở Cologne nay mang hỗn danh “Original Eau de Cologne”. Vậy là cái cửa hàng tôi chộp được ở Cologne là thứ đối lập với eau de Cologne do con cháu chính tông của cha đẻ ra thứ nước thơm này sản xuất tại Paris! Thế mới rắc rối tơ vò! Thứ eau de Cologne này ngày nay lại được các ông đực rựa xài nhiều hơn các bà. Lại thêm một rắc rối khác!
Bỏ cái mớ bòng bong eau de Cologne tôi đi tìm một thứ đặc sản khác tại Cologne. Đây không phải là đặc sản riêng của Koln mà là của chung nước Đức có tên Schweinshaxe. Đó là món đùi heo hầm. Nguyên một khúc đùi heo tròn vo được cắt từ đầu gối tới mắt cá của heo được dọn ra cùng với khoai tây chiên và món dưa cải chua Sauerkraut. Thêm một ly bia nữa là hết xảy. Đây là món ăn bắt buộc phải có trong mùa hội bia Oktoberfest. Đây cũng là món bắt buộc phải ăn của du khách tới Đức. Trong kỳ tới Munich bốn năm trước đây, tôi đã xực món quốc hồn quốc túy của Đức này rồi. Và đã đầu hàng! Bởi không ngờ cái đùi heo lớn đến như vậy. Lỗi tại tôi không nhìn chân cẳng của các bà Đức ngoài phố! Lần này tới Koln tôi lại...đùi heo. Thời gian bốn năm kể là dài. Đủ cho con người quên. Cũng như các bà lâm bồn lắc đầu lia lịa khi hỏi có tính vào nhà hộ sinh phùa nữa không, vậy mà có khi chỉ một năm sau lại lặc lè cái bụng.

Ăn đùi heo ở Đức
Schweinshaxe ở Cologne tưởng là khác ở Munich. Nhưng cũng rứa. Nhìn cái đùi heo nằm choáng gần hết chiếc đĩa lớn, tôi biết mình lại gặp...nạn. Nhưng dân chịu chơi mà. Lần này nhất định phải quất hết cho dân Đức biết mặt. Tôi loại khoai tây chiên ra. Chỉ tổ tốn chỗ! Bắp cải chua thì OK. Nó giúp đưa cái đùi heo vào dạ dầy. Ly bia cũng là một trợ thủ đắc lực. Bà bạn đồng hành bên cạnh lần đầu tiên chạm mặt với đùi heo rùng mình hỏi với sang: sao hết được? Tôi khẳng khái: hết chứ! Tay dao tay nĩa, tôi cố gắng. Được hơn nửa cái đùi, cái bụng bảo ngưng. Ngưng sao được. Cứ tiếp tục nhét. Nhưng rồi cái miệng lên tiếng bảo thôi. Đành thôi. Gần nửa cái đùi heo đỏ au còn lại trên đĩa nằm nhởn nhơ như trêu ngươi. Nếu có thể vái được chắc tôi vái ngay. Xếp dao nĩa lên đĩa, tôi phất cờ trắng đầu hàng. Hai lần ra quân, hai lần thua trông thấy. Dân Đức mạnh thật! Bữa cơm chiều hôm đó tại Bonn là không cần thiết.
Từ Koln tới Bonn gần xịt. Có 25 cây số xa lộ. Nhưng đó là 25 cây số được coi là xa lộ đầu tiên trên thế giới. Trước khi xe rời Koln, bà hướng dẫn viên đã cho biết cung đường xe sắp vượt qua là cung đường lịch sử. Nghe vậy cũng thấy khoái. Mình sắp đi trên...lịch sử! Xa lộ này được hoàn thành vào năm 1932, dưới thời của Thị Trưởng Konrad Adenauer. Ông này về sau trở thành một Thủ Tướng tên tuổi của Đức. Tôi ngước nhìn những bảng chỉ đường và biết xa lộ nay mang tên xa lộ A555. Dễ nhớ như thuốc lá ba số năm!
Bonn là thủ đô của Tây Đức từ 1949 tới 1990. Từ sau ngày chế độ cộng sản tan rã tại Đông Đức với sự sụp đổ của bức tường Bá Linh, thủ đô của nước Đức thống nhất được dời về cố đô xưa là Bá Linh. Tôi tới Bonn muộn màng khi nơi đây không còn là thủ đô nhưng vẫn chạm mặt với một thành phố văn hóa có truyền thống. Nằm trên bờ sông Rhin, đây là nơi mà nhiều cơ quan của Liên bang Đức vẫn còn nằm lại khiến nơi đây trở thành thủ đô thứ hai của Đức. Bonn ngày nay mang danh hiệu “Thành Phố Liên Bang”. Trong số 18 ngàn công chức liên bang đã có 8 ngàn người vẫn làm việc tại Bonn. Bonn vẫn duy trì địa vị quốc tế với 17 cơ quan của Liên Hiệp Quốc có trụ sở đặt tại đây. Nhưng niềm hãnh diện của Bonn chính là Đại học Bonn, một viện đại học đã có 200 năm tuổi được coi là một trong những đại học danh tiếng nhất của Âu châu với 29 ngàn sinh viên theo học năm nay. Theo học tại đây có các khuôn mặt nổi tiếng: đương kim Giáo Hoàng Benedict XVI, Karl Marx, Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche và Konrad Adenauer. Đại học Bonn trước mắt tôi là một công trình xây cất vừa cổ kính vừa mỹ thuật. Lang thang trong khuôn viên rộng lớn xanh rì cây cỏ, con người cảm thấy an bình và sảng khoái. Ngồi trên thảm cỏ xanh rì, chúng tôi như quên thời gian.
Bonn còn hãnh diện là quê hương của thiên tài âm nhạc Ludwig van Beethoven. Ông sanh ra tại đây vào năm 1770 và mất tại Vienna, nước Áo, vào năm 1827. Nơi sanh ra của ông tại khu trung tâm của Bonn nay trở thành “Viện Bảo Tàng Beethoven”. Ngay từ năm 1845, nhân kỷ niệm 75 ngày sanh của người nhạc sĩ tài ba của âm nhạc cổ điển Tây phương, một bức tượng của ông đã được khánh thành. Kể là muộn đối với nơi sanh quán của ông vì trước đó ba năm, năm 1842, thành phố Salzburg ở Áo đã dựng tượng của ông rồi. Tại Vienna, nơi ông mất, mãi tới năm 1880 mới có tượng tưởng niệm. Tôi không được tới coi ngôi nhà thơ ấu của Beethoven vì không được dắt tới nhưng tôi đã tới nơi có bức tượng của Beethoven tân kỳ hơn nơi công viên của đại hí viện Bonn. Tượng chân dung này chỉ có khuôn mặt của nhà nhạc sĩ nằm sát trên cỏ được ghép bằng những tảng xi măng nằm ngổn ngang mà nếu đứng từ xa trông không ra hình thù chi. Nhưng nếu đứng ngay chính giữa nhìn thẳng vào thì những tảng xi măng lộn xộn này tạo thành khuôn mặt Beethoven rất có hồn.

Tượng Beethoven
Trong danh sách các cựu sinh viên trường Đại học Bonn có các khuôn mặt mà sau này hầu như đi vào những con đường triết học đối nghịch nhau. Có đương kim Giáo Hoàng nhưng lại có Karl Marx vô thần. Karl Marx không có...hộ khẩu tại Bonn. Sanh quán của ông là Trier. Đây là thành phố cổ nhất của Đức, được thành lập từ năm16 trước công nguyên, nằm cách Luxemburg có 50 cây số. Nơi sanh của Karl Marx là một ngôi nhà trông rất tầm thường nằm trên đường Bruckenstrasse. Ngôi nhà hầu như lẫn lộn với những ngôi nhà khác dắt díu nhau đứng sát sạt trên vỉa hè. Không hàng rào, không vườn trước. Người ta ghi dấu nơi đây bằng một tấm phướn trắng in hinh chân dung và hàng chữ “Karl Marx Haus Museum”. Gắn trên tường là một tấm bảng nhỏ, cũng có hình chân dung và câu tiếng Đức: In Diesem Hause wurde am 5 Mai 1818 Karl Marx gebohren (Nơi căn nhà này Karl Marx được sanh ra vào ngày 5 tháng 5 năm 1818). Ngôi nhà nay được làm bảo tàng viện Karl Marx. Một nhóm du khách tụ tập trước cửa tuy đã hết giờ mở cửa. Giả thử còn trong giờ mở cửa, tôi cũng không vào. Báu gì mà phải bỏ tiền vào coi! Một người Việt trong nhóm cùng đi hỏi tôi: “Sao mình lại tới đây vậy ông?”.
Ừ nhỉ! Sao đi chơi có người dắt mà còn đi lạc!
09/2012

Tấm phướn đánh dấu nhà của Karl Marx
|