Bao
Bồ
Chạy
Coffee
Cõng
D.U.I.
Facebook

Hôn
In
I.Q.
Jehovah
Kiêng
Lồng
Mần
Mở
Mới
Muối
Nàng
Nịt
Nói
Pháp
Phố
Phơi
Pitbull
Robot
Solar

Thiện
Thưởng
Tịch
Tiếc
Tóc
Trăm
Tweet
Xuân
Yêu

IN

Chính phủ Quebec đang xem xét để thông qua và ban hành một quy định cho phép các cơ quan chính phủ phổ biến những thông báo trên mạng internet thay vì trên các báo in. Chuyện nghe ra cũng thường vì ngày nay mạng internet rất phổ biến. Cho tới nay, luật bắt buộc những thông báo có tính pháp luật phải được đăng trên các báo cho dân chúng tỏ tường. Đăng báo tất nhiên phải trả tiền. Nếu quy định mới được quốc hội thông qua, các cơ quan nhà nước sẽ tiết kiệm được số tiền đăng báo.

Sự lưu thông tiền tệ cũng như phù sa của một dòng sông, bên lở bên bồi. Nhà nước tiết kiệm thì báo chí nhăn răng! Vậy là có tranh cãi. Phía nhà nước dĩ nhiên tung hô hết mình. Ngân sách bớt được một khoản tiền. Phía nhà báo phản bác lại: muốn phổ biến rộng rãi các thông báo thì phải đăng báo vì báo có số lượng độc giả lớn hơn. Đâu có phải ai cũng có thể leo vào internet được. Hơn nữa, nếu báo không có tiền đăng các thông báo thì phải tính tới chuyện tiết kiệm hoặc đóng cửa gây ra tình trạng thất nghiệp cho khoảng 100 người tại Quebec.

Các quận lỵ trong tỉnh bang chi ra mỗi năm khoảng 10 triệu đô để đăng thông báo trên báo Le Devoir và khoảng 177 báo địa phương khác. Các báo này ra hàng tuần và phát miễn phí. Họ chỉ trông cậy vào tiền quảng cáo để sống còn. Ông David Price, chủ nhân của các báo The Westmount IndependentFree Press, phát hành 41 ngàn số báo mỗi tuần, cho biết: “Tin tức địa phương giúp ích cho các cư dân tại mỗi địa phương về nhiều phương diện: thuế má, thể thao, giải trí, lưu thông, tội ác…Những tin tức này thường không được đăng trên các báo lớn của thành phố, tỉnh bang, liên bang hay quốc tế. Họ không chú ý tới những loại tin lặt vặt này. Nếu người dân tại mỗi địa phương không biết tới những tin tức liên quan mật thiết tới họ thông qua báo chí địa phương, họ sẽ bị bỏ rơi, cô đơn, không biết những gì xảy ra quanh khu vực sống của họ”.

Phụ họa chống đối dự luật mới này còn có một nhóm gồm 140 hội viên của phòng thương mại tỉnh bang. Nhóm này nhận định là việc duy trì đăng các thông báo quan trọng trên các báo địa phương gồm những độc giả ngay tại chỗ là cần thiết cho sự minh bạch của chính phủ.

Phía vỗ tay cho dự luật là các quận hạt và ngay cả tòa đô chánh Montreal. Họ cho rằng việc bắt buộc đăng các thông báo trên các tờ báo địa phương là “ quan niệm của các thế kỷ trước”. Ông Alezandre Cusson, Thị Trưởng vùng Drummondville, nói rõ: “Các phương tiện truyền thông này đã thay đổi. Dù còn tiếp tục đăng báo in thì chúng ta cũng phải thay đổi văn phong và cách trình bày sao cho sáng sủa và dễ hiểu hơn”.

Ngay từ ngày ở Việt Nam, chúng ta đã thấy có những thông báo liên quan tới luật pháp phải bắt buộc đăng trên ba tờ báo. Tôi còn nhớ ngày đó,  các thông báo loại bắt buộc phải đăng báo này nằm trong các ô vuông vức, phủ kín trang chót của các báo hàng ngày. Tôi chẳng bao giờ ngó ngàng tới những cái ô vuông đặc sệt chữ nghĩa tối tăm và quan liêu đó. Nhưng đó là một nguồn sữa cho báo chí.

Nói chi thì nói, thế giới ngày nay đã thay đổi. Chỉ hơn chục năm trước, ít người tiên đoán được sự tràn lan của internet như bây giờ. Chính phủ liên bang Canada cũng đã thay đổi theo. Năm 2004, họ đã chi ra tới 20 triệu đô cho việc đăng các thông báo trên báo in. Mười năm sau, năm 2014, số tiền này rớt xuống còn có 400 ngàn đô. Cũng năm này, họ đã tiêu tổng cộng 4 triệu 700 ngàn cho Facebook và Google.

Những thứ nhả ra từ chiếc máy in, dù báo hay sách, cũng đều thuộc bên thua cuộc. Đà tiến hóa như con tầu rẽ sóng, sá chi những bè lục bình bên thân tầu. Nằm bên phe cổ lỗ sĩ ráng chịu. Chẳng làm chi được nhưng vẫn có quyền nuối tiếc.

Nuối tiếc nhất có lẽ là những người sống với sách báo. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn “tương tư” cái máy in hồi tôi mới bước chân vào làng báo. Ngày đó, gần nửa thế kỷ trước, chiếc máy in còn rất thô sơ. Thao tác của người thợ còn rất thủ công. Muốn in, phải có bát chữ. Đó là công trình của nhóm thợ sắp chữ. Nhà chữ như một cái kho, mỗi thợ sắp chữ đứng trước một cái giá gỗ lớn chia thành nhiều ngăn nhỏ, mỗi ngăn chứa nhiều chữ giống nhau. Thí dụ như chữ T, ngăn chữ được chia thành hai, bên chữ T hoa, bên chữ T thường. Người thợ phải gắp từng con chữ, xếp ngược vào một cái khuôn nhỏ cầm trên tay. Họ phải đọc ngược. Tôi chịu chết không đọc được khuôn chữ ngược ngạo này. Người sửa bản in, được gọi là thầy cò, cũng vậy. Sếp thợ sắp chữ, được gọi là sếp typo, phải dùng giấy mềm, nhúng nước cho ướt, vỗ vào bản sắp chữ đã được quết mực, cho bát chữ ngược trở thành xuôi để cho thầy cò đọc. Thường phải sửa nhiều lần. Mỗi lần sửa, thợ phải gắp con chữ sai ra, thế vào con chữ đúng, rồi vỗ lại. Lần sửa chót thường do tác giả phụ trách để bảo đảm bài viết đã được xếp chữ đúng. Bước kế tiếp là đổ khuôn chì. Dùng chì nấu chảy, nhúng khuôn chữ vào, làm nguội, thành những khuôn đúng một trang báo. Khi in, đóng những khuôn chì này vào tấm gỗ theo cách sắp xếp riêng để thợ sắp trang chỉ việc gấp trang giấy in theo trình tự là có các trang báo theo đúng số trang. Khi có hình kèm theo bài thì phải làm bản kẽm, thường do cơ sở làm bản kẽm như cliché Dầu (nổi tiếng nhất thời đó) phụ trách. Các bản kẽm có hình này và các bản chì được đóng vào tấm gỗ in bằng đinh. Nếu đóng khéo thì những đầu đinh lẩn dưới bản chì hoặc bản kẽm, không hiện lên trang giấy. Nhưng có khi thợ đóng ẩu hay vô ý, đầu đinh còn nổi lên trên, trang báo sẽ hằn in rõ các dấu đầu đinh!

Thứ máy in cổ lỗ sĩ này bây giờ đã tuyệt chủng, tìm đâu ra. Vậy mà trong một chuyến tới thủ đô Havana của Cuba vào năm 2005, tôi đã thấy lại những chiếc máy in tưởng không còn bao giờ hiện diện trên cõi đời này nữa. Khỏi nói, tôi mừng muốn chết. Tôi đã ghi lại sự việc “tha hương ngộ…máy in” này trong truyện ngắn “Rong Chơi”: “Một ông người Hoa đứng trong nhà nhìn ra cũng cười. Tôi không chú ý tới ông mà ngạc nhiên dán mắt vào những khuôn chữ bằng chì nằm thứ tự trên những chiếc kệ nghiêng nghiêng sát tường. Những con chữ của ngày xưa! Cả một thời quá khứ đổ ập về trong tôi. Những ngày làm báo xưa lao xao tất bật với những anh thợ sắp chữ thoăn thoắt tay bốc từng con chữ ngược gài vào khuôn xếp. Những bản vỗ, những khuôn chì vừa đổ nhúng vội vào nước, những chiếc máy in già nua lạch xạch nuốt từng tờ giấy khổ báo lớn do anh thợ in đút vào máy bằng chiếc que gỗ mỏng. Tiếng lạch xạch ngày xưa rõ ràng đang vẳng lại trong tai tôi. Trong một góc lờ mờ soi sáng bằng một bóng điện tròn vàng ệch, anh thợ in trần trùng trục đang châm giấy vào máy. Tôi như gặp lại người bạn cũ. Tay chân tôi rối bời lên. Ánh đèn flash của chiếc máy chụp hình trên tay tôi chớp lia lịa như muốn nuốt trọng những hình ảnh tưởng đã mất từ lâu”. 

Tôi đã có lần trở về lại con phố báo chí Phạm Ngũ Lão xưa, mon men tới xóm nhà in cũ. May mắn thay, anh Tư sếp typo và vài anh thợ sắp chữ vẫn còn ở đó. Chúng tôi tụ tập nhau lại bên bàn rượu trong con hẻm, vừa dzô dzô vừa ngậm ngùi nhắc lại chuyện xưa. Tôi bê cuộc gặp quý hóa này vào truyện ngắn “Gặp Gỡ”. “Chữ vào tay anh Tư thì dư sức kịp. Đôi tay anh thoăn thoắt dùng chiếc kẹp nhón từng miếng chì chút xíu sắp ngược vào chiếc khung cầm gọn trong tay. Anh đọc chữ ngược nhanh chẳng kém gì chữ xuôi. Phú nhìn vào bản chữ chì của anh chẳng thấy mô tê gì nhưng hỏi thì anh đọc từng câu vanh vách. Mỗi khi muốn sửa gấp vài chữ, Phú ngại khi bắt anh phải gắp chữ bỏ ra, thay vào những chữ khác, nhưng anh thì vẫn vui vẻ vứt ra gài vô những con chữ ngược ngạo đen xì, đẩy tới đẩy lui sắp cho khít hàng. Sửa xong, anh nhanh nhẹn quệt mực lên những con chữ, đập lên miếng giấy bổi ướt thành bản vỗ cho Phú kiểm lại. Thường thì bản xếp chữ của anh rất ít lỗi. Thầy cò khỏe ru. Nhấp nháy đã có thể phê được chữ OK liền. Nhưng gặp bản chữ của mấy đệ tử anh Tư thì sửa nát nước. Thầy cò bực dọc la lối chỉ có anh Tư lãnh đủ. Cách lãnh của anh xem ra cũng khá nhẹ nhàng. Anh úp bản vỗ kín mít những chữ sửa mực đỏ xuống bàn, vỗ vai anh thầy cò, xổ nước nhỏ. Bỏ qua đi anh Năm, tụi con nít anh coi như con cháu anh cho chúng nó mừng, để tôi rày chúng nó cho nhớ, chiều nay la de anh Năm há! Tính anh Năm hợp với la de nên mọi chuyện vui vẻ cả. Trở xuống nhà chữ, anh vừa la vừa chỉ cho tụi nhỏ bằng cái giọng nhỏ nhẹ có lẽ anh học được từ những anh kép mùi trong tuồng cải lương trên ti vi… Anh Tư vẫn giữ được bộ mặt sữa với làn da trắng, mái tóc chải vuốt ra sau lơ là một nét phồng phía trước. Trông anh vẫn còn phong độ tuy khuôn mặt đã bớt tròn, mái tóc thưa thớt ít ra cũng đã ba bốn phần bạc, và cái cười hiền lành xưa đã vất vả nhiều nếp nhăn dọc ngang trên mặt. ‘’Hồi này làm ăn gì không, anh Tư?’’ ‘’Đụng đâu xâu đấy cậu Hai à. Bây giờ việc nó chọn mình chứ mình đâu có quyền chọn việc nữa. “ Chắc chẳng còn việc cũ của anh nữa nhỉ?’’. Anh Tư cười nhẹ lắc đầu. ‘’Tiêu rồi cậu Hai ơi!’’. ‘’Rầu dữ hả?’. ‘’Rầu thì ráng chịu chứ biết sao. Mình bị qua mặt cái vù chẳng lẽ ngồi bên lề đường ôm bụng đói mà càm ràm.’’. Phú tinh nghịch giỡn. ‘’Chắc anh thù mấy thằng cha sáng chế ra cái máy điện toán lắm nhỉ?’’. Anh Tư cười buồn, giọng trong veo nhẫn nhục. ‘’Đời mà cậu! Mình bị đào thải thì xoay qua mần ăn chuyện khác. Tiến bộ thì nó cứ phải tiến chứ, mình lội bộ không theo kịp thì ráng chịu. Thù hận gì vô duyên vậy cậu Hai.’’. Phú thấy tức cười với lối chơi chữ của anh thợ sắp chữ yêu nghề nhưng mất nghề”.

Từ khi máy vi tính ra đời, công nghệ điện tử đã tiến những bước dài trong một thời gian ngắn. Từ những chiếc máy kềnh càng, computer đã như một mụ phù thủy, thu nhỏ lại. Cho tới khi những điện thoại thông minh, những máy tính bảng mảnh mai gọn nhẹ, thì sách và báo in lùi thấy rõ. Bill Gates đã tuyên bố là trước khi ông chết, ông sẽ làm cho các cuốn sách in “trở thành cổ vật”. Ông đã làm hơn thế. Ngày nay ông vẫn còn sống hùng sống mạnh nhưng những máy tính bảng đã phổ biến đến nỗi hầu như mỗi người đều có trong tay. Nằm trong chiếc máy nhỏ nhắn đó là sách, là báo. Cả ngàn cả vạn cuốn sách nằm gọn trong đó. Tiện thì có tiện nhưng vẫn còn những người hoài cổ. Nhà văn người Peru, Mario Vargas Llosa, giải Nobel Văn Chương năm 2010, phản bác: “Ý tưởng của Bill Gates không phải là muốn kết liễu thứ văn học như ta thường biết, song ông ta thực sự tin rằng computer có thể đảm nhiệm hoàn hảo tất cả chức năng của một cuốn sách. Tôi tin điều đó đúng khi ta nói về thông tin, nhưng sai khi nói về văn học. Vì việc đọc một tác phẩm văn học cần đến một góc riêng, một khoảng lặng thân thiết, điều đó sẽ không còn nữa khi chúng ta ngồi đối diện với màn hình của computer”.

Nhiều người đồng ý với nhà văn Mario Vargas Llosa. Cầm đọc một cuốn sách in có cái thú của người biết thưởng thức, liên quan tới nhiều giác quan. Khứu giác cho mùi thơm của giấy, xúc giác cho những ngón tay mở từng trang sách, và cuối cùng, thị giác cho những trang chữ thật chứ không ảo. Cái cảm giác sờ mó được đó không có thể tìm thấy khi đọc một cuốn sách trên computer hay tablet. Những trang chữ còn đó, mất đó khi chúng ta sang trang, như có cái vùng vằng bỏ chúng ta để mất hút, trốn chạy vào trong máy. Đọc xong cuốn sách, chúng ta gác lên tủ sách, cuốn sách chưa đi hết đoạn đường quyến rũ. Ngày ngày, chúng ta liếc nhìn lên tủ sách, những gáy sách thân thiết đứng cạnh nhau, chúng ta còn cảm thấy ấm áp, như một người bạn còn hiện diện bên cạnh, không bao giờ bỏ chúng ta. Thế hệ này qua thế hệ khác, từng cuốn sách được thêm thắt vô tủ sách, như một người bạn thủy chung của cả gia đình. Sách là bạn, là thầy giúp chúng ta mở mang kiến thức, thứ kiến thức truyền từ thế hệ trước qua thế hệ sau. Đó là cái văn hóa của một gia đình.

Dân tộc nào biết quý sách là một dân tộc có văn hóa. Tác giả Nguyễn Hương cho chúng ta biết: “Trong mỗi gia đình Do Thái luôn luôn có một tủ sách được truyền từ đời này sang đời khác. Tủ sách phải được đặt ở vị trí đầu giường để trẻ nhỏ dễ nhìn, dễ thấy từ khi còn nằm nôi. Để sách hấp dẫn trẻ, phụ huynh Do Thái thường tẩm nước hoa trên sách để tạo mùi hương cho các em chú ý. Mặc dù chỉ có tám triệu dân nhưng ở Do Thái có tới hơn một ngàn thư viện công cộng với nhiều sách quý. Bên cạnh việc hình thành, xây dựng thói quen đọc sách từ khi nằm nôi cho trẻ nhỏ, người Do Thái hiện vẫn sử dụng hình ảnh con lừa thồ sách để dậy các con: nếu chỉ dừng ở việc đọc mà không biết ứng dụng thì trí tuệ đó cũng chỉ là trí tuệ chết. Và để có thể ứng dụng, trẻ em Do Thái không ngừng đọc sách và tích lũy kiến thức từ nhiều ngành và lãnh vực khác nhau”.

Sách báo in ngày nay đang trên đà suy thoái. Nhiều tờ báo sống hàng trăm năm, nay cũng đã ra nghĩa địa, số sách được in vắng dần, báo mạng và e-book đang dần dần thế vào chỗ trống do sách báo in để lại. Thời nay, kỹ thuật đã và đang nhanh chóng có tiếng nói mạnh mẽ. Không ai có thể đi ngược dòng. Rồi sẽ tới ngày sách báo in sẽ chỉ còn là kỷ niệm.

Sách của người Việt tại hải ngoại cũng chịu chung số phận với thảm trạng sách báo in toàn cầu. Chúng ta còn có một “tai nạn” khác là số độc giả ngày càng suy sút. Những người ở lớp tuổi còn đọc tiếng Việt mai một dần, tầng lớp kế thừa phần lớn không còn nói được tiếng Việt, nói chi tới chuyện đọc. Các tác giả viết tiếng Việt tại hải ngoại hầu như không còn nghĩ tới chuyện in sách nếu không có một cơ may tới đúng lúc. Đó là doanh nghiệp in và phát hành sách Amazon. Với những máy in tân tiến có thể in từng cuốn sách, họ chỉ in sách khi có người mua, tiếng Anh gọi là print on demand. Không có sách dư, giá thành in một cuốn sách khá rẻ, khiến cho việc in sách không còn là bất khả. Nhưng đây có lẽ chỉ là cái đuôi của một thời kỳ. Rồi sách báo in chắc chắn sẽ bye bye chúng ta.

Vậy nên, khi tương tư chiếc máy in từ nửa thế kỷ trước, có lẽ tôi là một người cổ hủ và lạc hậu. Biết sao hơn? Đâu có thể vẽ đường cho cảm xúc được!

03/2017