Thế giới ngày nay rộn ràng ngày một. Con người quay cuồng đến chóng mặt. Có chuyện mới ngày hôm qua còn lạ hoắc, hôm nay đã thành quen thuộc. Kể ra thì rất nhiều. Thôi thì khỏi kể, ngoài một chuyện: chuyện đưa nhau tới bàn thờ ngoéo tay nhau thề sống đời ở kiếp với nhau. Cưới hỏi đối với người Thiên Chúa Giáo là phải diễn ra trong nhà thờ. Với các Phật Tử thì kể từ giữa thế kỷ trước, lễ cưới diễn ra tại chùa. Cưới ở chùa không gọi là lễ cưới mà gọi là lễ Hằng Thuận. Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm giải thích: Hằng thuận là đôi bên trai gái thuận ý sống với nhau trọn đời.
Ngày nay nhà thờ hay nhà chùa không phải là nơi các đôi tân hôn tới để cử hành những nghi lễ cưới hỏi. Họ túa ra ngoài không gian rộng lớn bên ngoài. Khi đã rộng cẳng bên bờ biển sóng vỗ, nơi những bãi cỏ xanh mướt hay nơi vùng núi non rộng mở của thiên nhiên thì họ muốn cởi bỏ mọi ràng buộc. Họ bỏ cả vị linh mục hay mục sư ở trong nhà thờ, bỏ cả các thầy ở trong chùa. Ông chú tôi, một người bảo thủ có tiếng chép miệng: “Giờ thì chúng nó cưới ở bờ ở bụi!”.
Thế hệ chúng tôi thì con cái đã dắt tay nhau đi từ khuya. Hiếm còn con cái của bạn bè còn ở không. Giờ được mời đi ăn cưới thì đã phải vớt xuống thế hệ dưới nữa: thế hệ cháu của bạn bè. Đây là thế hệ thứ hai, hoàn toàn sanh đẻ nơi xứ người. Chúng khác với thế hệ các ông các bà lắm. Tại một đám cưới được tổ chức tại một sân golf khoảng khoát nơi đồng quê, tôi học được những điều mới bi chừ của thế hệ được gọi là thế hệ số 2. Bãi cỏ xanh mướt bên bờ một con sông được biến thành lễ đài. Một khán đài nhỏ sơ sài đối diện với hai hàng ghế phủ vải trắng được xếp thẳng tắp. Đi ăn cưới phải lên đồ vía, tóc tai mượt mà, các bà thì đã đi mỹ viện từ sáng, bà nào cũng láng lẩy. Vậy mà gió cứ ào ào trêu ngươi. Đầu tóc như vừa được một đàn quạ tới thăm. Quần áo cứ tốc lên theo những cơn gió vũ phu. Đi ăn cưới mà cứ như đi đánh vật. Khi chiếc xe ngựa trang hoàng hoa hoét, giấy màu đưa cô dâu chú rể tới khán đài thì cặp tân hôn đã phải đánh vật ca ngày. Chiếc áo cô dâu như cánh buồm no gió. Chú rể xác xơ như vừa bị cả đàn chim tấn công. Buổi lễ tiến hành có câu nghe được có câu bị gió dành nghe trước mất. Nhưng điều tôi ngạc nhiên nhất là người chủ lễ lại là cô bạn thân của cặp vợ chồng mới này. Tôi nghĩ cô này chắc làm việc trong tòa án hay trong tòa thị chính chi chăng. Nhưng hỏi ra mới biết cô này chẳng liên quan chi tới những chỗ trang nghiêm như vậy. Vậy tại sao cô có thể khơi khơi đứng ra tác hợp cho đôi tân hôn?
Hóa ra chuyện này dân Quebec làm hà rầm mà tôi nhà quê không biết. Thực ra mình đâu có cần tới dịch vụ này đâu nữa mà biết được! Kể từ năm 2002, tỉnh bang của chúng tôi đã ra luật cho phép các đôi tân hôn có thể chọn bất cứ người nào để cử hành hôn lễ cho họ. Dĩ nhiên người được chọn phải có một số điều kiện: là dân Canada, không có tiền án hình sự, nói thông thạo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp và đồng ý tuân thủ những quy định mà công việc này đòi hỏi. Việc chọn bạn hoặc người thân làm “ông tòa” để cử hành hôn lễ nghe ra rất thú vị. Nó làm cho đám cưới có cái vẻ thân mật như trong gia đình, không có sự can thiệp của những người ngoài. Chỉ nguyên trong năm 2015, đã có 25% hôn lễ được cử hành thân mật như vậy.
Một trong những cô dâu thời mới này, cô Audrey Gadbois đã khoái chí cho biết: “Tôi thật sự cảm thấy có một người tôi tin tưởng, một người tôi quý trọng và quen biết, một người thường có mặt trong cuộc sống của tôi, hơn là một người lạ hoắc, chẳng biết tôi là ai, làm lễ cưới cho tôi”.
Vậy là cưới hỏi, các bạn trẻ ngày nay làm theo ý mình. Nhà thờ trước kia là nơi ai cũng nghĩ tới giờ bị loại ra khỏi đầu óc nhiều cặp tân hôn. Tại Quebec, năm 2002, 14 năm trước, tỷ số còn làm đám cưới trong nhà thờ là 71%, năm nay con số này tụt xuống còn 44%. Bà Barbara Mitchell, giáo sư môn xã hội học tại Đại học Simon Fraser nhận xét: sự lựa chọn của dân Quebec về cách hành xử hôn lễ của họ phản ánh một trào lưu thế tục hóa và từ chối truyền thống Công giáo. Bà nhấn mạnh: “Một số lớn các người trẻ muốn một loại nghi lễ phi tôn giáo!”.
Linh mục Mike Schmitz, tuyên úy tại Đại học Minnesota Duluth, nhân trả lời một cặp hôn nhân muốn làm đám cưới ngoài nhà thờ, đã biện luận: “Người Thiên Chúa Giáo tin rằng hôn nhân vừa là một Bí Tích vừa là một ơn kêu gọi. Vì là Bí Tích nên đó là một hành động của Nhà Thờ. Nó được diễn ra dưới mái nhà thờ vì, nếu không, chúng ta sẽ vướng vào vòng nguy hiểm khi có thể lãng quên sự kiện này. Lý do duy nhất các cặp hôn nhân muốn hôn lễ diễn ra bên ngoài nhà thờ là bởi vì họ không muốn nhận phép Bí Tích mà chỉ muốn cưới. Đây là một câu hỏi về căn cước: họ có muốn nhìn nhận mình là người Công giáo không? Nếu là người Công giáo thì việc phải làm là tổ chức hôn lễ như một người Công giáo. Hôn lễ của người Công giáo phải diễn ra trong nhà thờ!”.
Đó là lời nói của một vị linh mục, nói theo nguyên tắc. Việc lơ là với nhà thờ lại là chuyện của thế gian. Con người ngày nay ít lòng đạo hơn con người ngày xưa. Họ sống cho cuộc sống bây giờ, lúc này, nhiều hơn là cuộc sống mai sau ở một thế giới mà chưa ai trải qua.
Khi đất nước ta còn khói lửa mịt mùng, chuyện cưới xin là chuyện tùy tiện. Một hai ngày phép của một con người sống ngày hôm nay chỉ biết có hôm nay. Ngày mai ra sao là chuyện của bom đạn. Cưới bây giờ, biết bây giờ. Ngày mai là chuyện của ngày mai. Như đám cưới “màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Vừa cưới vừa chạy như vậy thì còn bày đặt chi những tiểu tiết đời thường. Những chuyện tầm phào khác có còn đáng được suy nghĩ tới trước khi hợp hôn không? Chuyện chính là có nhau, chấm hết!
Cũng thời loạn, người lính có những cách đánh dấu ngày hợp hôn riêng. Như trường hợp Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Trương Quang Ân. Quân hàm Chuẩn Tướng là chuyện sau, khi ông kết hôn thì trên vai ông mới có cặp lon Đại Úy. Ông thuộc binh chủng Dù. Cô dâu là Chuẩn Úy Dương Thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Dù kết hợp với Dù, chuyện phải xảy ra trên không trung. Người chủ hôn là Tư Lệnh binh chủng Dù. Ngay tại cửa máy bay, Đại Úy Trương Quang Ân trao nhẫn cưới cho nữ Chuẩn Úy Dương Thị Thanh, và hai người nắm tay nhau nhảy ra khỏi máy bay, điều khiển dù xuống Ấp Đồn, Hóc Môn. Hai ông bà sống một đời chinh chiến. Ngày Quân Lực năm 1968 ông được vinh thăng Chuẩn Tướng, giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Chỉ ba tháng sau, ngày 8 tháng 9 năm 1968, cả hai ông bà đang bay trực thăng đi ủy lạo các đơn vị thuộc Sư Đoàn đang hành quân thì chiếc H.34 bị tai nạn cách quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức, khoảng 10 cây số. Cả hai ông bà đều tử nạn. Tang lễ được cử hành tại tư gia trong cư xá sĩ quan Lê Đại Hành. Ông được truy thăng Thiếu Tướng và truy tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Bà được truy tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Từ chuyện một đám cưới đầy phong cách thời chiến, tôi đã theo chân Tướng Trương Quang Ân tới một kết cục bi thảm nhưng cũng rất thời chiến. Những chuyện tình thời chiến trên đất nước chúng ta không hiếm. Cuộc chiến khốc liệt và dài lâu đã là một sân khấu u ám buồn thảm cho những đôi tình nhân. Tôi nghĩ có kể thêm một chuyện tình này cũng không phải là thừa. Nhất là cuộc tình này không có đám cưới. Người ta có thể vợ chồng mà không qua bất cứ một thứ lễ nghi nào được không?
Nhà văn Giao Chỉ trong bài “Người Con Gái Sông Hương” đã kể lại chuyện tình của một người bạn. “Đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc. Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã. Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế… và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng”.
Cô sinh viên văn khoa Huế là chị cả trong một gia đình lễ giáo bảo thủ ở Huế. Cuộc tình của cô Lan Hương dĩ nhiên bị điểm xấu. Không cưới xin chi hết! Cô gái lụy tình cũng không cần cưới. Cô bỏ nhà theo chàng sĩ quan Bắc Kỳ đẹp trai. Cô chỉ trở về khi mang thai. Gia đình bất đắc dĩ phải chấp nhận cho chàng rể ra mắt nhạc gia và chào đón đứa con ra đời. Đúng khi Lan Hương vào nhà thương thì Cộng sản tấn công tại Ái Tử. Bom gầm đạn xé khiến các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến xông vào trận mạc. Ngày 6 tháng 4 năm 1972, đứa con trai đầu lòng của Nguyễn và Lan Hương ra đời được đặt tên là Vũ. Từ mặt trận, Trung Tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ thăm vợ con được ít phút rồi phải ra đi gấp. Chiến tranh thực sự đi vào cuộc sống đơn lẻ của Lan Hương. Sau trận Cổ Thành, Nguyễn được thuyên chuyển về Sài Gòn làm Trung Đoàn Trưởng một trung đoàn bộ binh.
Cuối tháng 4/1975, Lan Hương mang bụng bầu, dắt theo đứa con 3 tuổi theo gia đình chồng di tản. Tới đảo Guam, cô hối hận đã bỏ Nguyễn lại chiến trường để thoát thân. Cô ghi tên xin trở về theo tầu Việt Nam Thương Tín. Tuy nhiên sắp đến ngày sanh lại thấy những người đòi về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên cô quyết định ở lại mà cõi lòng tan nát. Qua tới miền Đông nước Mỹ, cô sanh đứa con trai thứ nhì tại trại tỵ nạn Fort Chaffee, đặt tên là Việt. Một nách hai con còn nhỏ, cô đã được các bà trong một họ đạo giúp đỡ trông con để mẹ đi học lại. Nguyễn vẫn bặt vô âm tín. Anh còn sống hay đã chết, đi tù cải tạo hay mất tích? Hình bóng người chồng theo cô trong những đêm đông giá lạnh một mình thui thủi đi học để lo cho tương lai của ba mẹ con.
Trong hoàn cảnh đó, năm năm sau, một ông giáo sư người Mỹ đã ly dị vợ, yêu cô gái Việt và xin cưới. Cô hỏi ý người anh chồng cũng sống ở Mỹ. Tuy là vai anh chồng và là bác ruột của hai đứa con của Nguyễn, ông không biết trả lời sao. Làm sao có thể quyết định được một chuyện khó khăn như vậy. Nếu không đồng ý thì cũng không thể ngăn cản được. Nhưng người bác nghĩ tới tương lai của hai đứa cháu. Làm sao người mẹ đơn chiếc có thể nuôi con nên người với những lo toan vật chất cũng như tinh thần khi hai đứa cháu của ông lên trung học và đại học. Tin nhà vẫn lặng câm. Nguyễn còn sống hay đã chết để bắt Lan Hương chờ đợi. Vậy là ông cho cưới. Ngày cưới được ấn định vào tháng 7 năm 1980.
Ba ngày trước ngày cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Trong thư có kèm theo một tờ giấy nhỏ của Nguyễn. Anh vẫn còn sống, đang bị tù cải tạo nhưng không rõ ở đâu. Tin nhà tới khiến Lan Hương vui nhưng rất khó nghĩ. Hai đứa con vẫn còn bố nhưng duyên phận nàng thì bẽ bàng. Đám cưới vẫn được cử hành. Với cuộc sống mới đầy đủ hơn, nàng có thể gửi tiền về nuôi gia đình và gửi quà tiếp tế cho Nguyễn tại các trại tù từ Bắc vào Nam.
Phần Nguyễn chỉ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có tin tức chi nhiều. Sau 13 năm tù, Nguyễn được thả. Biết tin Lan Hương đã có gia đình mới, anh tìm lại nhà người vợ cũ và đưa cả gia đình qua Mỹ theo diện HO, định cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là một gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như trước khi gặp Lan Hương.
Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương nay đã 40 tuổi, đem hai con tới gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay vợ nói: “Em hãy đi và thử hỏi lại lòng mình một lần cho rõ ràng. Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của chúng ta, sau mười năm, tới đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại thì xin nói lời chia tay rõ ràng với Mr. Nguyễn. Đối với anh, Nguyễn luôn luôn là một người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã cho anh một gia đình trong mười năm hạnh phúc”.
Phần Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi nghĩ lại thấy ba mẹ con đã thấm nhuần văn hóa Mỹ, anh không đủ khả năng phá vỡ bức tường ngăn cách đã 15 năm. Đành để cho định mệnh chơi xong cuộc chơi của nó. Cuộc thăm viếng dự định là một tuần, nhưng chỉ bốn ngày sau, Lan Hương đã đưa hai con trở về.
Tháng 5 năm 2002, đứa con trai thứ hai của Nguyễn và Lan Hương, bác sĩ Việt, 27 tuổi cưới vợ. Cô dâu người Mỹ. Ông bố chồng Mỹ đứng lên giới thiệu ông bố chồng Việt: đây là người anh hùng Trung Tá Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đã chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do và khi miên Nam sụp đổ, đã trải qua 13 năm trong tù cộng sản. Ông lớn tiếng: “Mr Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay”. Bà mẹ chồng Lan Hương khoác tay, một bên là ông chồng Mỹ, một bên là ông chồng Việt Nam tiến lên bàn thờ giữa tiếng vỗ tay vang rền của quan khách.
Đám cưới được tổ chức trong nhà thờ. Đó hình như là nơi thích hợp nhất cho một cuộc tuyên hứa long trọng của hai người yêu nhau. Tôi vẫn khoái hình ảnh cặp tân hôn khoác tay nhau tiến lên bàn thờ trong tiếng nhạc của bài Oui Devant Dieu quen thuộc. Nhà thơ Bùi Chí Vinh chắc cũng khoái như tôi.
Kìa Oui Devant Dieu
Mau quỳ xuống trước bàn thờ đi em
Đừng cắn tay, đừng ngó lên
Trước khi chớp mắt đừng quên liếc chàng
Lát chàng nâng ngón tay ngoan
Nhớ hôn mặt nhẫn nói thầm: anh ơi
Lát môi chàng chạm vào môi
Nhớ suỵt khe khẽ: suốt đời nghe anh!
07/2016 |