Ai chứ hai ông tỷ phú Bill Gates và Warren Buffett thì chúng ta đều biết. Người giầu nhất nhì thế giới thì những ai quan tâm tới tiền đâu dễ bỏ qua. Mà tiền thì ai chẳng thiết tha muốn có trong túi. Hai ông ấy làm chi mà giầu? Có thể nhiều người không biết. Đó là cái tài của họ. Nhưng cái đức của họ thì hầu như ai cũng biết. Họ đã trút gần hết gia sản cho việc thiện nguyện.
Nhiều người cho là trên thế giới này chẳng ai dại hơn hai ông lắm của này. Tiền là thứ liền khúc ruột, vậy mà để ruột vung vãi ra đường. Bộ hai cha này không con cái chi chăng? Có chứ. Bill Gates có ba con: Jennifer Katharine, Rory John và Phoebe Adele. Warren Buffett cũng có ba con: Peter, Howard Graham và Susan Alice. Ông Buffett hơn ông Gates: ông có hai vợ trong khi ông Gates chỉ có một. Ông cưới bà vợ đầu Susan Buffett vào năm 1952 và bà vợ sau Astrid Menks vào năm 2006.
Họ cũng thương con, để tiền lại cho con như mọi người chúng ta nhưng họ làm khác lũ lục tục thường tình chúng ta. Theo đánh giá của Fortune vào tháng 8 năm 2016 thì gia tài của Bill Gates, giầu nhất thế giới, ước tính vào khoảng 90 tỷ. Gia tài của Warren Buffett, tính tới ngày 23 tháng 1 năm 2017, là 73 tỷ 100 triệu. Giầu nứt đố đổ vách như vậy nhưng họ chỉ để lại cho con cái số tiền không đáng kể.
Bill Gates để cho ba con 0,05% tài sản. Chỉ là vảy móng tay chẳng đáng chi? Bộ ông này không thương con cái chăng? Ổng thương theo kiểu của ổng. Ông nói như thế này: “Đã là con người thì phải làm việc. Tại sao tôi phải cho con cái tiền?”. Thiệt…gàn!
Warren Buffett, trong một lá thư gửi Bill Gates cũng…gàn bát sách: “Tôi chỉ đưa cho con mình đủ tiền để chúng biết rằng chúng có thể làm bất cứ điều gì mình muốn, nhưng cũng không quá nhiều khiến chúng tưởng rằng chúng chẳng cần làm gì cả. Nếu ba đứa con mang họ Buffett vì chỉ được tình cờ may mắn sinh ra trong gia đình Buffett mà được hưởng số tiền hàng chục tỷ đô để hưởng thụ thì đó là điều vô cùng bất công, xã hội không còn công lý nữa”. Ông này mắc bệnh gàn nhẹ hơn ông Bill Gates nên đã để lại cho ba con tới 10% số tài sản của ông. Nhưng ba người con này đã từ chối không nhận và bỏ số tiền đó vào quỹ từ thiện. Người con cả, Peter Buffett, bằng chính bàn tay của mình, cũng đã…tỷ phú. Ông là một nhạc sĩ thành công. Ông con này cũng hách như cha khi nói: “Tiền không phải là tất cả!”. Cái mà ông quý nhất là bài học về giá trị cuộc sống của cha ông mà ông sẽ noi theo.
Cuộc sống của người sở hữu 73 tỷ này chẳng có chi ngoạn mục. Tỷ phú Warren Buffett vẫn sống tại ngôi nhà ông mua từ năm 1958 ở Omaha khi ông cưới vợ. Căn nhà chỉ có ba phòng ngủ, không có hàng rào bao quanh, ông mua hồi đó hết 31.500 đô. Trị giá hiện nay của căn nhà khoảng 700 ngàn đô. Bạn bè tôi, chẳng tỷ phú chi, cũng đang ngự tại những căn nhà có giá cao hơn nhiều. Tại sao tiền rừng bạc bể như ông mà sống trong căn nhà thiếu…đẳng cấp như vậy? Ông thản nhiên cho biết: “Ở đó tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi sẽ dọn nhà nếu tôi cho là mình sẽ hạnh phúc hơn ở một nơi khác. Làm sao mà tôi có thể cải thiện được cuộc sống của mình bằng cách có chục ngôi nhà trên khắp thế giới. Nếu muốn trở thành một người quản lý nhà cửa, tôi sẽ làm nghề đó. Nhưng tôi không muốn quản lý chục căn nhà và cũng không muốn ai đó phải làm giúp mình công việc đó. Tôi cảm thấy căn nhà của tôi ấm áp trong mùa đông, mát mẻ vào mùa hè. Căn nhà thật tiện lợi đối với tôi. Tôi không nghĩ là mình sẽ có một ngôi nhà tốt hơn thế!”.
Theo cái nhìn của thế gian thì ông Warren Buffett là một tỷ phú…bèo! Tỷ phú chi mà chẳng có máy bay, cũng chẳng du thuyền, thua xa ngay cả mấy anh tỷ phú hãnh tiến ở Việt Nam. Ông cho những thứ đó chỉ là những món đồ chơi, những cục nợ phiền toái. Lần cưới vợ thứ hai ông cũng chỉ tổ chức đơn giản tại nhà con gái ở Omaha. Khi có đứa con đầu, ông không chịu mua nôi mà đóng lấy bằng gỗ từ một chiếc ngăn kéo cũ. Tới đứa con thứ hai, ông tiến bộ hơn một chút: đi xin một chiếc nôi cũ! Ông quan niệm cái chi đáng mua mới mua, thứ chi dùng một thời gian rồi bỏ xó thì ông nhất định không lòi ra một xu. Chiếc xe ông đi là chiếc Volkswagen cũ kỹ, có lẽ thua chiếc xe tôi đang dùng không chừng. Chỉ khi bị vợ làm áp lực ông mới chịu đổi chiếc Cadillac mới. Ông vẫn lái xe lấy, không có tài xế. Tuy có cả một hãng máy bay lớn nhưng đi đâu ông cũng chỉ ngồi hạng tiết kiệm như mọi hành khách khác. Bộ ông tỷ phú này không có thú vui chi sao? Kể ra cũng có. Đó là ăn nhẩn nha một túi bắp rang khi đọc sách hay coi ti-vi tại nhà!
Không tiêu xài, không để cho con, tiền tỷ của ông được mang ra làm từ thiện hết. Ông rất tâm đầu ý hợp với vợ chồng tỷ phú Bill Gates. Ông đã khơi khơi góp 35 tỷ vào quỹ từ thiện của vợ chồng Bill và Melinda Gates vì thấy quỹ này hoạt động hiệu quả. Năm 2002, sau khi đàm đạo với nhau suốt 10 tiếng đồng hồ, Bill Gates đã ngẩng đầu lên trời, cảm tạ Thượng Đế: “Sao Ngài đã sinh ra Bill lại còn sinh ra Warrent nữa cho tri kỷ tương phùng!”. Hai ông này là vua từ thiện. Họ hợp nhau xúi các tỷ phú khác làm từ thiện với họ qua tổ chức The Giving Pledge được họ thành lập vào năm 2010. The Giving Pledge quy tụ những tỷ phú cam kết sẽ dành ít nhất phân nửa tài sản cho từ thiện khi còn sống hoặc khi đã qua đời. Tính tới tháng 6 năm 2016, đã có 154 tỷ phú gia nhập với số tiền cam kết là 732 tỷ. Sự cam kết này không có tính cách pháp lý mà chỉ là bản tự nguyện. Đọc trong danh sách các cây tiền này, tôi thấy có nhiều tên quen thuộc như Mark Zuckerberg (Facebook), Larry Ellison (Oracle), Tim Cook (Apple), Paul Allen (Microsoft), Elon Musk (Telsa).
Theo một nghiên cứu của Wealth-X thì trung bình mỗi tỷ phú Mỹ đã góp 179,5 triệu đô cho từ thiện. Trong khi đó thì trung bình đóng góp của những người siêu giàu trên thế giới chỉ có 28,7 triệu đô. Dân Mỹ là dân thích làm từ thiện. Họ có tới trên một triệu cơ quan từ thiện tất cả. Người ta ước lượng mỗi gia đình Mỹ đóng góp 2,2% lợi tức vào việc giúp các người kém may mắn khác. Tôi đọc được trên internet một bài viết của một người Việt, không đề tên tác giả, kể về bước đầu tới Mỹ: “Những ngày tháng đầu tiên ở Mỹ, tôi thường được người bảo trợ chở đi đây đó khắp thành phố Houston để tìm việc làm. Nhớ có một lần chúng tôi đi trên đường phố gặp một người ăn xin, tôi liền lấy một đô-la ra cho. Người bảo trợ có vẻ không vui, tôi đưa mắt hỏi, ông giải thích: “Cho tiền người ăn xin này có thể xúi anh ta lười biếng. Muốn làm việc từ thiện, xin hãy góp tiền cho xã hội có phương tiện ngăn chặn không còn một kẻ ăn xin nào nữa. Một tuần sau, tôi có việc làm tại một Đại học, người bảo trợ hỏi ý kiến tôi và trừ ngay 2% lương hàng tháng của tôi, trong suốt 30 năm, để đóng góp vào quỹ U.W., cơ quan từ thiện giúp người vô gia cư. Người bảo trợ chính là viên chức cao cấp tại Đại học này. Từ thiện là nét đẹp lương tâm cộng đồng Hoa Kỳ, từ thiện là triết lý công bằng xã hội của quốc gia có một nền tự do dân chủ tiên tiến nhất trên quả đất này. Sau hơn 34 năm ở Hoa Kỳ, dành nhiều thời giờ hoạt động trong công tác từ thiện, tôi nhận thấy nhiều người Hoa Kỳ đều cho rằng làm việc từ thiện là món trang sức đẹp nhất của con người và hầu hết người Hoa Kỳ đều hân hoan công nhận: thước đo giá trị của con người là lòng từ thiện”.
Nhận xét của một dân tỵ nạn người Việt trên không sai chệch đi đâu được. Các tỷ phú Mỹ rộng mở túi tiền giúp đỡ những người nghèo và thiếu may mắn trên khắp thế giới đã đành. Những người lợi tức yếu kém cũng cố dành chút ít cho đồng loại túng thiếu khác. Theo một nghiên cứu của công ty Justgive.org, những gia đình có lợi tức kém, khoảng 10 ngàn đô mỗi năm, trung bình đã đóng góp cho từ thiện khoảng 520 đô. Tính ra tỷ lệ, đó là 5,2% lợi tức. Tài liệu không ghi rõ cuộc nghiên cứu được thực hiện vào năm nào, nhưng tôi nghĩ chắc nhiều năm trước, bởi vì ngày nay ít có gia đình nào có lợi tức ít tới con số quá khiêm nhượng đó. Nhưng nếu nhìn vào tỷ lệ 5,2%, đây là một con số đáng khâm phục.
Những người không đủ phương tiện tài chánh để làm từ thiện cũng có thể hiến công sức của họ. Theo thống kê năm 2005, đã có 65 triệu 400 ngàn người Mỹ tự nguyện đóng góp công quả tối thiểu 50 giờ làm việc thiện nguyện trong năm.
Đại Học John Hopkins đã có một nghiên cứu về làm việc từ thiện của dân chúng trong nhóm G7, nhóm những quốc gia giầu nhất thế giới. Họ so sánh tiền đóng góp cho từ thiện với tổng sản lượng quốc gia (GDP). Quốc gia mà dân chúng đóng góp cho từ thiện ẹ nhất trong số các nước giầu là Đức với tỷ lệ trung bình là 0,13%, con cháu Thái Dương thần nữ cũng ẹ không kém, chỉ 0,22%, dân Pháp khá hơn một chút 0,32%. Dân Anh tưởng phớt tỉnh ăng-lê nhưng cũng vào hạng khá với 0,84%. Dân Mỹ là số dách với 1,85%.
Có thể có người nghĩ là dân Mỹ và dân các nước giầu làm từ thiện là đúng, dân nghèo lấy chi mà cho. Tôi mới đọc được một bài của Giáo sư John Vũ viết về một chuyện ông trực tiếp chứng kiến tại một quốc gia nghèo là Ấn Độ. Giáo sư John Vũ là một trong mười người top sáng tạo nhất thế giới. Đứng đầu trong nhóm chục người sáng giá nhất hành tinh này không ai khác hơn là hai nhà tỷ phú Bill Gates của Microsoft và Steve Jobs của Apple. Ông John Vũ đã từng là Viện Trưởng viện Nghiên Cứu Phần Mềm của Đại Học Carnegie Mellon và Kỹ Sư Trưởng của hàng máy bay Boeing. Ông là người đã đào tạo hơn 10 ngàn kỹ sư phần mềm. Tài ngang ngửa với thiên hạ nhưng ông là người khiêm tốn, đã từ chối nhiều giải thương về sáng tạo khoa học lớn của Mỹ và từ chối nhiều đề nghị phỏng vấn của các hãng thông tấn uy tín. Khi Tổng Thống Obama tới thăm Đại học Carnegie Mellon, ông đã từ chối không gặp Tổng Thống. Một người Việt tài giỏi tưởng như thuộc về một thế giới học thuật xa cách với chúng ta nhưng nếu biết ông chính là dịch giả Nguyên Phong của một loạt sách tâm linh thì ông lại quá gần với chúng ta. Chúng ta đây là đông đảo độc giả của những cuốn Hành Trình Về Phương Đông, Bên Rặng Tuyết Sơn, Đường Mây Qua Xứ Tuyết, Minh Triết Trong Đời Sống, Ngọc Sáng Trong Hoa Sen…
Giáo sư John Vũ kể: “Vài năm trước khi dạy ở Ấn Độ, tôi thấy Prasad Mehta, một sinh viên năm thứ tư thường viết bằng bút chì. Ngày nay sinh viên đại học không dùng bút chì, phần lớn dùng laptop và nếu phải viết, họ dùng bút bi. Tôi ngạc nhiên hơn khi không thể dùng được bút chì thêm nữa, anh để nó vào trong túi nhỏ nơi có nhiều bút chì, tất cả đều ngắn và dường như chúng đã được dùng rồi. Bút chì là rẻ và thường được dùng cho tới khi ngắn vài phân rồi vứt đi. Tôi tưởng Prasad là sinh viên nghèo không thể mua được bút bi nên hôm sau tôi cho anh ta một gói sáu bút bi và nói: “Em có thể dùng các bút này để không phải dùng bút chì nữa.” Prasad cám ơn tôi về những bút bi rồi giải thích tại sao anh ta thích dùng bút chì”.
Prasad là con nhà giầu. Cha anh là chủ của một công ty thương mại rất lớn. Anh có đủ mọi thứ như laptop, iPhone, iPad, xe máy, xe hơi và mặc toàn hàng hiệu đắt tiền. Anh ăn chơi đúng mức, chi ra hàng trăm đô cho một buổi tiệc. Nhưng tất cả đều chấm dứt khi anh gặp một bà già lao công tại một trường tiểu học. Bà sống trong một túp lều rách nát phía sau trường và lương hàng năm của bà chỉ khoảng một trăm đô, số tiền không là chi với Prasad. Bà là một người đàn bà góa, không con cái, muốn giúp đỡ người khác nhưng chẳng có gì để cho. Một bữa, Prasad đi làm công tác xã hội theo phân công của Đại học. Anh được phái tới trường tiểu học nơi bà già quét rác. Anh mượn thư viện một cuốn sách về cuộc đời của thánh Gandhi để đọc cho học sinh nghe. Giáo sư Nguyên Phong kể tiếp: “Khi trẻ em tụ tập quanh Prasad ở thính phòng của trường, em bắt đầu đọc: “Gandhi thường viết nhiều thư. Một hôm, Kalelkar, một tác giả Ấn Độ nổi tiếng, thấy ông đang viết bằng chiếc bút chì ngắn và lập tức đưa tặng cho Gandhi chiếc bút chì dài hơn từ túi ông ta. Gandhi lễ phép nói rằng ông ấy không cần nó. Ngày hôm sau, Kalelkar thấy Gandhi lục túi tìm bút chì cũ nên ông ta lại đưa ra chiếc bút chì dài hơn: ‘Dẫu sao bút chì của ông ngắn quá rồi, viết rất khó khăn’. Gandhi dịu dàng đáp, ‘Nhưng một đứa trẻ đã cho tôi bút chì đó.’ Và ông ấy cứ tìm chiếc bút chì đó. Điều Gandhi dạy là ở một nước nghèo, người ta phải tằn tiện, không nên phí phạm bất cứ thứ gì và không nên cư xử như các nước giầu khác…”. Prasad mỉm cười: “Câu chuyện này được viết ra cho học sinh tiểu học. Nó không quan trọng với em vào lúc đó nhưng điều em không chú ý là người đàn bà quét rác cũng nghe em đọc. Câu chuyện mà em đọc có tác động lên bà ấy”. Xã hội Ấn Độ có hai giai cấp rõ ràng: giai cấp quyền quý giầu có và giai cấp bần cùng không ai muốn đụng vào untouchable. Từ khi nghe lén câu chuyện về thánh Gandhi, bà già bắt đầu thu thập những mẩu bút chì, cái gọt bút chì, cục tẩy mà học sinh vứt bỏ trong lớp để mang tới các xóm nghèo cho các trẻ em bất hạnh. Khi, trong một lần đi làm công tác xã hội, Prasad quay lại ngôi trường tiểu học xưa. Bà già tìm tới cám ơn anh vì câu chuyện bà nghe lén anh đọc đã giúp bà ý tưởng giúp đỡ người khác mà trong nhiều năm bà vẫn muốn làm nhưng không có phương tiện. Bà mời anh tới túp lều để bà đãi một bữa cơm đạm bạc như một lời cám ơn anh. Bữa cơm quả rất đạm bạc nhưng anh thấy ngon hơn bất cứ bữa tiệc sang trọng nào mà anh vẫn thường tham dự. Khi Prasad ra về, bà đưa cho anh một túi nhựa nhỏ gần rách trong đó chứa đầy những mẩu bút chì ngắn, những cục tẩy đã mòn. Bà nhờ anh tới xóm nghèo trao cho các trẻ em ở đó vì chân bà bị tê thấp không thể lội bộ tới đó được. Giáo sư John Vũ nhắc lại lời của anh Prasad trong phần cuối bài viết: “Không thành vấn đề giầu hay nghèo, lòng cảm thông và từ bi với người khác là quan trọng. Không phải cứ giầu mới cho được người khác. Chừng nào còn biết quan tâm tới người khác, chừng nào trái tim còn biết rung cảm với sự khổ đau của người khác, nó là trái tim thuần khiết. Tất nhiên, em hoàn thành lời hứa với bà ấy bằng việc phân phối món quà của bà cho trẻ em nghèo ở khu nhà ổ chuột. Từ đó, em không bao giờ vứt đi bất kì gì, kể cả những chiếc bút chì đã dùng rồi. Em giữ chúng trong túi để em cũng có thể đem chúng cho trẻ em nghèo nữa. Hành động khiêm tốn đầy vị tha của bà ấy đã làm thay đổi cuộc đời em. Bà ấy đã làm thay đổi cách suy nghĩ của em về cuộc sống và hành vi của em cũng thay đổi hoàn toàn. Cha mẹ em đã vui mừng khi thấy em chăm chỉ học hơn trong trường và đã thôi đi dự tiệc tùng ăn nhậu cuối tuần.”
Nói tới Ấn Độ không thể nào không nhắc tới mẹ Teresa, một người suốt đời sống cho những người nghèo. Tôi nghĩ không cần phải kể ra những việc thiện mà Mẹ đã làm vì chúng ta ai cũng đã từng nghe kể. Mẹ đã được gọi là “thánh” khi còn sống ở trần gian và đã thực thụ là “thánh” trên Thiên Đường khi được Giáo Hoàng Francis phong thánh vào ngày 4 tháng 9 năm 2016 tại Vatican, 19 năm sau khi Mẹ giã từ cõi thế. Nếu cần nhắc lại một câu nói của Mẹ Teresa, tôi sẽ chọn câu: If you are not poor enough to take charity, you are rich enough to give. Nếu bạn không nghèo đủ để xin tiền từ thiện thì bạn đã giầu đủ để đóng góp làm việc từ thiện!
01/2017 |